id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19857629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bom%20h%E1%BA%B9n%20gi%E1%BB%9D
Bom hẹn giờ
Bom hẹn giờ là một bom được kích hoạt bởi đồng hồ bấm giờ. Việc sử dụng hoặc cố gắng sử dụng bom hẹn giờ nhằm nhiều mục đích khác nhau bao gồm gian lận bảo hiểm, khủng bố, ám sát, phá hoại và chiến tranh. Chúng cũng thường xuyên được sử dụng trong phim kinh dị và phim hành động vì sự kịch tính mang lại được. Xem thêm Bom Tham khảo Bom Thiết bị nổ cải tiến
19857630
https://vi.wikipedia.org/wiki/W%C3%BCrttemberg
Württemberg
Württemberg ( ; ) là một lãnh thổ lịch sử của Đức gần như tương ứng với vùng văn hóa và ngôn ngữ Swabia. Thủ phủ của vùng này là thành phố Stuttgart. Trong dòng thời gian lịch sử, từ thời Trung Cổ, Württemberg đã lần lượt là một bang quốc cấu thành của Đế quốc La Mã Thần thánh, Liên bang sông Rhine, Bang liên Đức và Đế quốc Đức. Lịch sử của Württemberg có thể được tóm tắt trong các giai đoạn sau: Bá quốc Württemberg (1083–1495) Công quốc Württemberg (1495–1803) Tuyển hầu xứ Württemberg (1803–1806) Vương quốc Württemberg (1806–1918) Bang Nhân dân Tự do Württemberg (1918–1945) Hình thành từ một phần lãnh thổ của Công quốc Swabia cũ, Württemberg nổi lên vào thế kỷ 11 từ lãnh thổ của nhà Württemberg ở giữa lưu vực sông Neckar. Với địa vị khởi đầu là một bá quốc từ thế kỷ 12, Württemberg có được địa vị một công quốc từ năm 1495, với các thủ phủ tạm thời là Stuttgart và Ludwigsburg. Ngoài khu vực cốt lõi Württemberg, các vùng lãnh địa ở tả ngạn sông Rhein ở Alsace và xung quanh Montbéliard (Württemberg-Mömpelgard) được nhập vào công quốc Württemberg cho đến năm 1793. Ảnh hưởng của Württemberg liên tục phát triển, trở thành một Tuyển hầu xứ vào năm 1803 và một Vương quốc vào năm 1806. Sau khi Đế chế La Mã Thần thánh giải thể vào năm 1806, Württemberg trở thành một quốc gia có chủ quyền cho đến khi thành lập Đế quốc Đức vào năm 1871. Là một quốc gia thành viên của Đế quốc Đức, tương tự như Vương quốc Bayern, Württemberg được bảo lưu các đặc quyền đối với hệ thống đường sắt và bưu chính. Các đặc quyền này chỉ kết thúc vào ngày 30 tháng 3 năm 1920 do các quy định của Hiến pháp Weimar. Cuộc Cách mạng tháng 11 năm 1918 đã dẫn đến việc lật đổ chế độ quân chủ và tuyên bố thành lập "Bang Nhân dân Tự do Württemberg". Từ năm 1945 đến năm 1952, Württemberg bị phân chia thành các khu vực chiếm đóng khác nhau, với một bên là bang Württemberg-Hohenzollern, với lãnh thổ Hohenzollern, thủ phủ tại Tübingen (thuộc vùng chiếm đóng của Pháp); và Württemberg-Baden, cùng với phần phía bắc của Baden, thủ phủ tại Stuttgart (trong vùng chiếm đóng của Mỹ). Vào năm 1952, sau khi thành lập Cộng hòa Liên bang Đức, cả hai vùng này đều được sáp nhập để thành bang Baden-Württemberg. Stuttgart, thủ phủ lịch sử của Württemberg, trở thành thủ phủ của bang hiện nay. Từ nguyên Danh từ Württemberg trước đây còn được ghi chép dưới 2 dạng biến thể là Würtemberg và Wirtemberg. Cái tên "Wirtenberg", bắt nguồn từ ngọn đồi Württemberg ở Stuttgart-Rotenberg (Untertürkheim, Stuttgart). Tên Wirtenberg có lẽ có nguồn gốc từ Celtic. Giống như tên của thành phố Verdun của Pháp, nó có thể bắt nguồn từ tiếng Gaul *Wirodūnon (*wiros 'người đàn ông' và *dūnon 'pháo đài, thành trì; thành lũy; ngọn đồi'), virodūnum được Latinh hóa. Lâu đài của tổ tiên nhà Wirtemberg trước đây từ thế kỷ 11 đã tồn tại trên Württemberg cho đến năm 1819 và một nhà nguyện chôn cất Vương hậu Katharina của Württemberg đã được xây dựng tại vị trí của nó vào năm 1824. Cho đến giữa thế kỷ 14, chỉ có dạng Wirtenberg được tìm thấy trong các tài liệu. Việc đổi tên thành dạng có 'm' giống như Wirtemberg là do sự đồng hóa của nhóm phụ âm /nb/ thành /mb/. Theo Harald Schukraft, cách đánh vần chữ 'm' bắt nguồn từ mối liên hệ của Württemberg với vùng Mömpelgard nói tiếng Pháp (Montbéliard). Cho đến ngày nay, trong tiếng Pháp, chỉ có chữ 'm' có thể đứng trước chữ 'b'. Cách viết Württemberg đã trở thành tên quốc gia chính thức khi Napoléon I nâng nó thành Vương quốc Württemberg. Do đặc điểm lịch sử, các thuật ngữ Swabia và Württemberg thường được sử dụng thay thế cho nhau trong thông tục. Tuy nhiên, về mặt địa lý, một phần đáng kể của Württemberg không thuộc về Swabia và một phần lớn của Swabia không thuộc về Württemberg. Württemberg còn được sử dụng như danh xưng thông tục để chỉ bang Baden-Württemberg của Cộng hòa liên bang Đức ngày nay. Tuy nhiên, về lịch sử và địa lý, Württemberg cùng với Baden và Hohenzollern, hai vùng lãnh thổ lịch sử khác, mới hợp thành bang Baden-Württemberg ngày nay. Lịch sử Xem thêm Huy hiệu của Württemberg Danh sách các thành bang quốc gia trong Đế quốc La Mã Thần thánh Chú thích Tham khảo Cựu quốc gia quân chủ châu Âu Württemberg Lịch sử Đức
19857635
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20V%E1%BB%B9%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
Trần Vỹ (Việt Nam)
Trần Vỹ (1921 - 2003), còn viết là Trần Vĩ, là một chính khách Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội trong 3 khóa, từ 1977 đến 1987. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2013 vì những công lao đóng góp của mình trong giai đoạn từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 3 năm 1991. Tham khảo Chính khách Việt Nam
19857642
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Grayling%20%28SS-209%29
USS Grayling (SS-209)
USS Grayling (SS-209) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một chi cá nước ngọt thuộc họ Cá hồi. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được tám chuyến tuần tra và đánh chìm năm tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 20.575 tấn. Con tàu mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng tại khu vực Manila vào khoảng ngày 9 tháng 9, 1943 mà không rõ nguyên nhân. Grayling được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào cuối năm 1942, Grayling được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch. Grayling được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 15 tháng 12, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 9, 1940, được đỡ đầu bởi bà Marion Barnes Bryant Leary, phu nhân Chuẩn đô đốc Herbert F. Leary, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 3, 1941 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Eliot Olsen. Lịch sử hoạt động 1941 Phần thưởng Grayling được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm năm tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 20.575 tấn. Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-209 On Eternal Patrol: USS Grayling Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu ngầm bị mất của Hải quân Hoa Kỳ Tàu bị mất tích trong Thế Chiến II Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1942 Sự cố hàng hải năm 1943 Tàu thủy năm 1940
19857644
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Grayling
USS Grayling
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Grayling, theo tên một chi cá nước ngọt thuộc họ Cá hồi: USS Grayling (SS-18) là một tàu ngầm hạ thủy năm 1909, đổi tên thành năm 1911 và xuất biên chế năm 1922 là một tàu tuần tra trong biên chế từ năm 1917 đến năm 1919 là một tàu tuần tra trong biên chế từ năm 1917 đến năm 1918 là một nhập biên chế năm 1941 và bị mất năm 1943 USS Grayling (SS-492) dự định là một nhưng kế hoạch chế tạo bị hủy bỏ vào năm 1945 là một trong biên chế từ năm 1967 đến năm 1997 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857646
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Grenadier%20%28SS-210%29
USS Grenadier (SS-210)
USS Grenadier (SS-210) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá đuôi chuột. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được sáu chuyến tuần tra và đánh chìm một tàu chở hành khách Nhật Bản tải trọng 14.457 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong biển Đông gần Phuket, Thái Lan, nó bị hư hại nặng do trúng mìn sâu từ máy bay Nhật Bản, và phải tự đánh đắm vào ngày 22 tháng 4, 1943. Grenadier được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi. Grenadier được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 2 tháng 4, 1940. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 11, 1940, được đỡ đầu bởi bà Virginia E. Anderson, phu nhân Chuẩn đô đốc Walter S. Anderson, Trưởng phòng Tình báo Hải quân, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 5, 1941 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Allen R. Joyce. Lịch sử hoạt động 1941 Phần thưởng Grenadier được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu chở hành khách Nhật Bản tải trọng 14.457 tấn. Những hình ảnh Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Xem thêm Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-210 On Eternal Patrol: USS Grenadier Combined Fleet entry for Taiyo Maru Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu ngầm bị đánh chìm bởi máy bay Xác tàu đắm tại eo biển Malacca trong Thế Chiến II Sự cố bắn nhầm Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1942 Sự cố hàng hải năm 1943 Tàu thủy năm 1940
19857648
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Grenadier
USS Grenadier
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Grenadier, theo tên họ Cá đuôi chuột: là một nhập biên chế năm 1941 và bị mất năm 1943 là một trong biên chế từ năm 1951 đến năm 1973 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857650
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rho%20Cassiopeiae
Rho Cassiopeiae
Rho Cassiopeiae là một ngôi sao đơn lẻ và được phân loại là sao biến quang bán đều. Là một sao siêu khổng lồ màu vàng, nó là một trong những loại sao hiếm nhất. Chỉ có vài chục được biết đến trong Milky Way, nhưng nó không phải là cái duy nhất trong chòm sao của nó cũng chứa V509 Cassiopeiae. Quan sát Tên gọi Bayer cho ngôi sao này được thành lập vào năm 1603 như một phần của Uranometria, một danh mục sao do Johann Bayer tạo ra, người đã xếp ngôi sao này vào lớp cường độ thứ sáu. Danh mục sao của John Flamsteed xuất bản năm 1712, trong đó sắp xếp các ngôi sao trong mỗi chòm sao theo thăng thiên bên phải, đã đặt cho ngôi sao này tên gọi Flamsteed 7 Cassiopeiae. Rho Cas lần đầu tiên được mô tả là biến vào năm 1901. Nó chỉ được phân loại là "pec". với một phạm vi biến đổi nhỏ nhưng rõ ràng. Bản chất của nó tiếp tục không rõ ràng trong thời kỳ thị giác tối thiểu vào năm 1946, mặc dù nó được cho là có liên quan đến việc phát hiện một lớp vỏ đang giãn nở xung quanh ngôi sao. phổ đã phát triển các đặc điểm kích thích thấp hơn được mô tả là điển hình của sao M thay vì lớp F8 trước đó. Bản chất của Rho Cas cuối cùng đã được làm rõ là một ngôi sao khổng lồ phát sáng không ổn định, dao động và mất khối lượng, và đôi khi bị che khuất bởi những đợt giảm khối lượng mạnh. Rho Cas thường có cường độ biểu kiến gần 4,5, nhưng vào năm 1946, nó bất ngờ giảm xuống cường độ thứ 6 và nguội đi hơn 3.000 Kelvin, trước khi trở lại độ sáng trước đó. Một vụ phun trào tương tự đã được ghi nhận vào năm 1893, cho thấy rằng nó trải qua những vụ phun trào này khoảng 50 năm một lần. Điều này lại xảy ra vào năm 2000–2001, khi nó được quan sát bởi Kính thiên văn William Herschel. Vào năm 2013, một vụ phóng vỏ đã tạo ra những thay đổi quang phổ đáng kể và giảm khoảng một nửa cường độ ở bước sóng nhìn thấy được. vạch phát xạ yếu của kim loại và các vạch hấp thụ H-α yếu được phát hiện vào cuối năm 2014 và các vạch hấp thụ tăng gấp ba bất thường vào năm 2017. Độ sáng đạt cực đại ở cường độ 4,3 trước khi mờ dần xuống cường độ thứ 5. Vào năm 2018, nó lại sáng lên mức 4,2. Ấn phẩm thị sai ban đầu của Hipparcos ước tính Rho Cas vào khoảng 0,28 mas, tương ứng với khoảng cách khoảng 10.000 năm ánh sáng và khiến Rho Cas trở thành một trong những ngôi sao xa nhất có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Tuy nhiên, các ấn phẩm gần đây hơn ước tính Rho Cas có thị sai lớn hơn nhiều, tương ứng với khoảng cách ngắn hơn nhiều. Thuộc tính Rho Cassiopeiae là một trong những ngôi sao màu vàng sáng nhất được biết đến. Nó gần đạt đến giới hạn độ sáng Eddington và thường mất khối lượng ở khoảng /năm, gấp hàng trăm triệu lần tốc độ gió mặt trời. Phần lớn thời gian, nó có nhiệt độ trên 7.000 K, bán kính quanh và dao động không đều tạo ra những thay đổi nhỏ về độ sáng. Khoảng 50 năm một lần, nó trải qua một vụ nổ lớn hơn và thổi bay một phần đáng kể bầu khí quyển, khiến nhiệt độ giảm xuống khoảng 1.500 K và độ sáng giảm tới 1,5 độ. Vào năm 2000–2001, tỷ lệ tổn thất khối lượng đã tăng lên /năm, giải phóng tổng cộng khoảng 3% khối lượng mặt trời hoặc 10.000 Khối lượng trái đất. Độ sáng gần như không đổi trong các vụ nổ ở mức , nhưng lượng bức xạ phát ra chuyển sang vùng hồng ngoại. Độ phong phú bề mặt của hầu hết các nguyên tố nặng trên Rho Cas đều tăng lên so với Mặt trời, nhưng carbon và oxy đã cạn kiệt. Điều này được mong đợi đối với một ngôi sao lớn, nơi phản ứng tổng hợp hydro diễn ra chủ yếu thông qua chu trình CNO. Ngoài helium và nitơ dự kiến ​​được đối lưu lên bề mặt, natri được tăng cường mạnh, cho thấy rằng ngôi sao đã trải qua nạo vét lên khi ở trong đỏ giai đoạn siêu khổng lồ. Do đó, người ta dự đoán rằng Rho Cas hiện đang phát triển theo hướng có nhiệt độ nóng hơn. Hiện tại, lõi heli đang được đốt cháy thông qua quy trình ba alpha. Khối lượng tương đối thấp và độ sáng cao của một ngôi sao siêu khổng lồ hậu đỏ là nguyên nhân gây mất ổn định, đẩy nó đến gần Eddington Giới hạn. Tuy nhiên, các siêu sao màu vàng nằm trong một phạm vi nhiệt độ trong đó độ mờ thay đổi trong các vùng ion hóa một phần hydro và heli gây ra các xung, tương tự như nguyên nhân của các xung Cepheid Variable. Ở những ngôi sao siêu khổng lồ, những xung động này thường không đều và nhỏ, nhưng kết hợp với sự mất ổn định tổng thể của các lớp bên ngoài của ngôi sao, chúng có thể dẫn đến những vụ nổ lớn hơn. Tất cả điều này có thể là một phần của xu hướng tiến hóa hướng tới nhiệt độ nóng hơn do sự mất đi bầu khí quyển của ngôi sao. Đặt tên ρ Cassiopeiae là một thành viên của chòm sao Trung Quốc Rắn bay (), trong Khu cắm trại biệt thự. Theo thứ tự, 22 ngôi sao thành viên là α và 4 Lacertae, π<sup>2</ sup> và π1 Cygni, sao 5 và 6, HD 206267, 13 và ε Cephei, β Lacertae, σ, ρ, τ, và AR Cassiopeiae, 9 Lacertae, 3, 7 , 8, λ, ψ, κ và ι Andromedae. Do đó, tên Trung Quốc của ρ Cassiopeiae là (, ) Tài liệu tham khảo {{danh sách phản ánh|30em|refs= <ref name=AEEA> Liên kết ngoài
19857658
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B9ng%20kinh%20t%E1%BA%BF%20%C4%90%E1%BA%A5t%20%C4%90en%20Trung%20t%C3%A2m
Vùng kinh tế Đất Đen Trung tâm
Vùng kinh tế Đất đen Trung tâm' (tiếng Nga: Центра́льно-Чернозёмный экономи́ческий райо́н; chuyển tự Latinh: Tsentral'no-Chernozyomnyy ekonomicheskiy rayon) là một trong 12 vùng kinh tế của Nga. Nó bao gồm 5 oblast ở phía nam của Vùng liên bang Trung tâm, bao gồm: Belgorod Oblast, Kursk Oblast, Lipetsk Oblast, Tambov Oblast, Voronezh Oblast. Đây là vùng nằm trên bình nguyên Đông Âu mà thổ nhưỡng chính là đất đen, do đó nó là trung tâm nông nghiệp của Nga cũng như của châu Âu. Phía tây của vùng này tiếp giáp với Đông Ukraina. Tham khảo Vùng kinh tế của Nga Vùng liên bang trung tâm
19857660
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20an%20t%E1%BB%89nh%20H%C3%A0%20T%C4%A9nh
Công an tỉnh Hà Tĩnh
Công an tỉnh Hà Tĩnh là cơ quan Công an cấp tỉnh ở Việt Nam, thuộc hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tại Hà Tĩnh. Lãnh đạo Công an tỉnh Hiện nay Tổ chức Khối Cơ quan An ninh – Tình báo Phòng An ninh đối ngoại (PA01) Phòng An ninh đối nội (PA02) Phòng An ninh chính trị nội bộ (PA03) Phòng An ninh kinh tế (PA04) Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PA05) Phòng Kỹ thuật nghiệp vụ (PA06) Phòng Ngoại tuyến (PA07) Phòng Quản lý xuất nhập cảnh (PA08) Phòng An ninh điều tra (PA09) Phòng Tình báo (PB01) Cảnh sát Văn phòng Cơ quan CSĐT (PC01) Phòng Cảnh sát hình sự (PC02) Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (PC03) Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường (PC05) Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (PC06) Phòng Cảnh sát PCCC & CNCH (PC07) Phòng Cảnh sát giao thông (PC08) Phòng Cảnh sát đường thủy (PC08B) Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10) Phòng Cảnh sát cơ động (PK02) Trại giam Đại Bình (PC11) Hậu cần Phòng Hậu cần (PH10) Phòng tài chính (PH01) Bệnh viện Công an tỉnh Xây dựng lực lượng Phòng Tổ chức - Cán bộ (PX01) Phòng Tham mưu (PV01) Phòng pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp (PV03) Thanh tra Công an tỉnh Lâm Đồng (PX05) Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ (PX02) Cơ quan UBKT Đảng ủy Công an tỉnh (PX06) Phòng Hồ sơ (PV06) Phòng Công tác Đảng và công tác Chính trị (PX03) Phòng Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc (PV05) Khối Đơn vị trực thuộc Công an các thành phố/thị xã/huyện trực thuộc tỉnh Công an thành phố Hà Tĩnh Công an thị xã Kỳ Anh Công an huyện Kỳ Anh Công an huyện Đức Thọ Công an huyện Nghi Xuân Công an huyện Cam Lộc Công an huyện Thạch Hà Công an huyện Cẩm Xuyên Công an huyện Hương Sơn Công an huyện Hương Khê Công an huyện Vũ Quang Công an huyện Lộc Hà
19857674
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFn%20ph%C3%A1%20m%E1%BA%A1nh%20cu%E1%BB%91i
Bắn phá mạnh cuối
Bắn phá mạnh cuối, hay đại hồng thủy mặt trăng, là một sự kiện thiên văn được đưa ra giả thuyết được cho là đã xảy ra khoảng 4,1 đến 3,8 tỷ năm (Ga) trước, tại thời điểm tương ứng đến các thời đại Neohadean và Eoarchean trên Trái đất. Theo giả thuyết, trong khoảng thời gian này, một số lượng lớn không cân xứng các tiểu hành tinh và sao chổi va chạm vào hành tinh mặt đất và [[tự nhiên] của chúng. vệ tinh]] của hệ mặt trời bên trong, bao gồm Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất (và Mặt Trăng) và [[Sao Hỏa] ]]. Chúng đến từ cả sau bồi tụ và sự bất ổn của hành tinh do các quần thể các tác nhân điều khiển. Mặc dù nó đã từng được chấp nhận rộng rãi việc cung cấp lượng bằng chứng áp đảo cho giả thuyết này vẫn rất khó khăn. Tuy nhiên, việc đánh giá lại gần đây của vũ trụ -các hạn chế về mặt hóa học cho thấy rằng có khả năng không có sự tăng đột biến muộn ("tai biến cuối cùng") về tốc độ bắn phá. Bằng chứng cho LHB bắt nguồn từ đá mặt trăng mẫu của miệng Mặt Trăng do chương trình Apollo phi hành gia mang về. Xác định niên đại đồng vị cho thấy đá bị nóng chảy lần cuối trong các sự kiện va chạm trong một khoảng thời gian khá hẹp, cho thấy rằng một tỷ lệ lớn các miệng hố đã được hình thành trong thời kỳ này. Một số giả thuyết cố gắng giải thích sự tăng đột biến rõ ràng này trong dòng vật thể va chạm trong Hệ Mặt trời bên trong, nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận nào. Mô hình đẹp, phổ biến trong các nhà khoa học hành tinh, đưa ra giả thuyết rằng hành tinh khổng lồ đã trải qua di chuyển quỹ đạo, làm phân tán các vật thể từ [[vành đai tiểu hành tinh] ], Vành đai Kuiper hoặc cả hai, vào quỹ đạo lệch tâm và vào đường đi của các hành tinh thuộc hệ đất đá. Các nhà nghiên cứu khác nghi ngờ về vụ bắn phá dữ dội, cho rằng sự tập hợp rõ ràng của các độ tuổi tan chảy do va chạm với mặt trăng là một tạo tác thống kê được tạo ra bằng cách lấy mẫu đá nằm rải rác từ một vụ va chạm lớn. Họ cũng lưu ý rằng tốc độ va chạm hố va chạm có thể khác biệt đáng kể giữa vùng bên ngoài và bên trong của Hệ Mặt trời. Bằng chứng cho một trận đại hồng thủy Bằng chứng chính cho một trận đại hồng thủy trên mặt trăng đến từ độ tuổi bằng phép đo phóng xạ của những tảng đá tan chảy do va chạm được thu thập trong các sứ mệnh Apollo. Phần lớn các vết tan chảy do va chạm này được cho là hình thành trong quá trình va chạm của các tiểu hành tinh hoặc sao chổi có đường kính hàng chục km, tạo thành các hố va chạm có đường kính hàng trăm km. Các địa điểm hạ cánh Apollo 15, 16 và 17 đã được chọn do chúng gần với Imbrium, Nectaris và Serenitatis tương ứng. Sự phân nhóm rõ ràng về độ tuổi của những vụ tan chảy do va chạm này, trong khoảng từ 3,8 đến 4,1 Ga, khiến các nhà điều tra đưa ra giả thuyết rằng những độ tuổi đó ghi lại một cuộc bắn phá dữ dội lên Mặt trăng. Họ gọi đó là "thảm họa mặt trăng" và cho rằng nó thể hiện tỷ lệ gia tăng đáng kể của vụ bắn phá Mặt Trăng vào khoảng 3,9 Ga. Nếu sự tan chảy do va chạm này bắt nguồn từ ba lưu vực này, thì không chỉ ba lưu vực va chạm nổi bật này hình thành trong một khoảng thời gian ngắn mà nhiều lưu vực khác cũng dựa trên [[Địa tầng|địa tầng] ] căn cứ. Vào thời điểm đó, giả thuyết này được coi là gây tranh cãi. Khi có nhiều dữ liệu hơn, đặc biệt là từ thiên thạch mặt trăng, giả thuyết này, mặc dù vẫn còn gây tranh cãi, đã trở nên phổ biến hơn. Các thiên thạch mặt trăng được cho là lấy mẫu ngẫu nhiên bề mặt mặt trăng và ít nhất một số trong số này có nguồn gốc từ các khu vực cách xa địa điểm hạ cánh của Apollo. Nhiều thiên thạch mặt trăng feldspathic có lẽ có nguồn gốc từ phía xa của mặt trăng và sự tan chảy do va chạm bên trong những thiên thạch này gần đây đã được xác định niên đại. Phù hợp với giả thuyết về trận đại hồng thủy, không ai trong số họ có độ tuổi lớn hơn khoảng 3,9 Ga. Tuy nhiên, các độ tuổi không "phân cụm" vào ngày này mà trải dài trong khoảng từ 2,5 đến 3,9 Ga. Việc xác định niên đại của các thiên thạch howardite, eucrite và diogenite (HED) và các thiên thạch H chondrite có nguồn gốc từ vành đai tiểu hành tinh cho thấy nhiều độ tuổi từ 3,4–4,1 Ga và đỉnh cao trước đó là 4,5 Ga. Độ tuổi 3,4–4,1 Ga được hiểu là thể hiện sự gia tăng vận tốc va chạm khi mô phỏng trên máy tính sử dụng hydrocode tiết lộ rằng khối lượng của tác động tan chảy tăng 100–1.000 lần khi vận tốc va chạm tăng từ mức trung bình trung bình của vành đai tiểu hành tinh hiện tại là 5 km/s lên 10 km/s. Vận tốc va chạm trên 10 km/s đòi hỏi độ nghiêng rất cao hoặc độ lệch tâm lớn của các tiểu hành tinh trên quỹ đạo đi ngang qua hành tinh. Những vật thể như vậy rất hiếm trong vành đai tiểu hành tinh hiện tại nhưng dân số sẽ tăng lên đáng kể do sự cộng hưởng lan rộng do sự di chuyển của hành tinh khổng lồ. Các nghiên cứu về sự phân bố kích thước miệng núi lửa ở vùng cao cho thấy rằng cùng một họ đạn đã tấn công Sao Thủy và Mặt Trăng trong Vụ ném bom hạng nặng muộn. Nếu lịch sử phân rã của vụ bắn phá nặng nề muộn trên Sao Thủy cũng tiếp nối lịch sử của vụ bắn phá nặng nề muộn trên Mặt Trăng, thì lưu vực lớn trẻ nhất được phát hiện, Caloris, có độ tuổi tương đương với các lưu vực mặt trăng lớn trẻ nhất, Orientale và Imbrium, và tất cả các đơn vị đồng bằng đều có tuổi đời hơn 3 tỷ năm. Những lời chỉ trích về giả thuyết thảm họa Trong khi giả thuyết thảm họa gần đây đã trở nên phổ biến hơn (trong vòng 50 năm qua), đặc biệt là trong số những nhà động lực học đã xác định được nguyên nhân có thể gây ra hiện tượng như vậy, nó vẫn còn gây tranh cãi và dựa trên những giả định gây tranh cãi. Hai lời chỉ trích là (1) "cụm" độ tuổi va chạm có thể là một tạo tác của việc lấy mẫu ejecta của một lưu vực duy nhất và (2) việc thiếu va chạm làm tan chảy các đá lớn hơn khoảng 4,1 Ga có liên quan đến tất cả các mẫu như vậy đã được nghiền thành bột , hoặc độ tuổi của họ đang được đặt lại. Lời chỉ trích đầu tiên liên quan đến nguồn gốc của vụ va chạm làm tan chảy đá được lấy mẫu tại địa điểm hạ cánh của tàu Apollo. Mặc dù những vụ tan chảy do va chạm này thường được cho là có nguồn gốc từ lưu vực gần nhất, nhưng có ý kiến ​​​​cho rằng phần lớn trong số này có thể bắt nguồn từ lưu vực Imbrium. Lưu vực va chạm Imbrium là lưu vực trẻ nhất và lớn nhất trong số lưu vực nhiều vòng được tìm thấy ở vùng gần trung tâm của Mặt trăng và mô hình định lượng cho thấy rằng lượng phóng xạ đáng kể từ sự kiện này sẽ có mặt ở tất cả các địa điểm đổ bộ của Apollo. Theo giả thuyết thay thế này, cụm va chạm tan chảy có độ tuổi gần 3,9 Ga chỉ phản ánh vật liệu được thu thập từ một sự kiện va chạm duy nhất chứ không phải nhiều sự kiện. Những lời chỉ trích bổ sung cũng lập luận rằng mức tăng đột biến về tuổi ở 3,9 Ga được xác định trong 40Ar/39Ar việc xác định niên đại cũng có thể được tạo ra bởi sự hình thành lớp vỏ sớm theo từng giai đoạn, sau đó là một phần 40 Tổn thất do tỷ lệ va chạm giảm. Lời chỉ trích thứ hai liên quan đến tầm quan trọng của việc thiếu tác động làm tan chảy những tảng đá lớn hơn khoảng 4,1 Ga. Một giả thuyết cho quan sát này không liên quan đến thảm họa là những tảng đá tan chảy cũ đã tồn tại, nhưng tuổi phóng xạ của chúng đều đã được thiết lập lại bởi quá trình liên tục, ảnh hưởng của hố va chạm trong 4 tỷ năm qua. Hơn nữa, có thể tất cả các mẫu giả định này đều đã được nghiền thành bột thành kích thước nhỏ đến mức không thể xác định được độ tuổi bằng các phương pháp đo phóng xạ tiêu chuẩn. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu lịch sử bắn phá mặt trăng trong một cố gắng làm sáng tỏ lịch sử của hệ mặt trời bên trong. Hậu quả địa chất trên Trái đất Nếu một sự kiện miệng núi lửa cataclysmic thực sự xảy ra trên Mặt trăng thì Trái đất cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ngoại suy tỷ lệ tạo ra miệng núi lửa trên mặt trăng tới Trái đất vào thời điểm này cho thấy số lượng miệng núi lửa sau đây đã hình thành: * 22.000 trở lên miệng núi lửa có đường kính >, * khoảng 40 bể va chạm có đường kính khoảng , * một số bể va chạm có đường kính khoảng , Trước khi hình thành giả thuyết LHB, các nhà địa chất thường cho rằng Trái đất vẫn nóng chảy cho đến khoảng 3,8 Ga. Niên đại này có thể được tìm thấy ở nhiều đá được biết đến lâu đời nhất từ khắp nơi trên thế giới và dường như đại diện cho một "điểm cắt" mạnh mẽ mà vượt qua đó không thể tìm thấy những tảng đá cũ hơn. Những niên đại này vẫn khá ổn định ngay cả trong nhiều phương pháp xác định niên đại khác nhau, bao gồm cả hệ thống được coi là chính xác nhất và ít bị ảnh hưởng nhất bởi môi trường, uranium–chì niên đại của zircons. Vì không thể tìm thấy những tảng đá cũ hơn, nên người ta thường cho rằng Trái đất vẫn nóng chảy cho đến ngày nay, điều này xác định ranh giới giữa các eons Hadean trước đó và Archean sau này. Tuy nhiên, vào năm 1999, đá lâu đời nhất được biết đến trên Trái đất có niên đại 4,031 ± 0,003 tỷ năm tuổi và là một phần của Acasta Gneiss của Slave Craton ở tây bắc Canada. Tuy nhiên, những tảng đá cũ hơn có thể được tìm thấy ở dạng mảnh tiểu hành tinh rơi xuống Trái đất dưới dạng thiên thạchs. Giống như đá trên Trái đất, các tiểu hành tinh cũng có điểm giới hạn mạnh, vào khoảng 4,6 Ga, được cho là thời điểm các chất rắn đầu tiên hình thành trong đĩa hành tinh xung quanh Mặt trời khi đó còn non trẻ. Khi đó, Hadean là khoảng thời gian từ khi hình thành những tảng đá ban đầu này trong không gian cho đến quá trình hóa cứng cuối cùng của lớp vỏ Trái đất, khoảng 700 triệu năm sau. Lần này sẽ bao gồm sự bồi tụ của các hành tinh từ đĩa và sự nguội dần của Trái đất thành một vật thể rắn khi thế năng hấp dẫn của quá trình bồi tụ được giải phóng. Những tính toán sau này cho thấy tốc độ sụp đổ và nguội đi phụ thuộc vào kích thước của khối đá. Việc mở rộng tốc độ này cho một vật thể có khối lượng Trái đất cho thấy sự nguội đi rất nhanh, chỉ cần 100 triệu năm. Sự khác biệt giữa phép đo và lý thuyết đưa ra một câu hỏi hóc búa vào thời điểm đó. LHB đưa ra lời giải thích tiềm năng cho sự bất thường này. Theo mô hình này, những tảng đá có niên đại 3,8 Ga chỉ cứng lại sau khi phần lớn lớp vỏ bị LHB phá hủy. Nói chung, Acasta Gneiss trong khiên nền cổ Bắc Mỹ và các gneisse trong phần Jack Hills của Narryer Gneiss Terrane ở Tây Úc là những mảnh lục địa lâu đời nhất trên Trái đất, tuy nhiên chúng dường như có niên đại muộn hơn. LHB. Khoáng vật lâu đời nhất từng có niên đại trên Trái đất, zircon 4.404 Ga từ Jack Hills, có trước sự kiện này, nhưng nó có thể là một mảnh vỏ còn sót lại từ trước LHB, chứa trong một tảng đá trẻ hơn nhiều (~3,8 Ga cũ). Đá zircon Jack Hills đã dẫn đến sự phát triển trong hiểu biết về thời đại Hadean. Các tài liệu tham khảo cũ hơn nói chung cho thấy Trái đất Hadean có bề mặt nóng chảy với núi lửa nổi bật. Bản thân cái tên "Hadean" ám chỉ những điều kiện "địa ngục" được áp dụng trên Trái đất vào thời điểm đó, từ tiếng Hy Lạp Hades. Việc xác định niên đại bằng zircon gợi ý, mặc dù còn gây tranh cãi, rằng bề mặt Hadean rắn chắc, ôn hòa và được bao phủ bởi các đại dương axit. Bức tranh này bắt nguồn từ sự hiện diện của các tỷ lệ đồng vị cụ thể cho thấy hoạt động của hóa học gốc nước tại một thời điểm nào đó trước khi hình thành các loại đá lâu đời nhất (xem Trái đất sơ khai mát mẻ). Đặc biệt quan tâm, Manfred Schidlowski đã lập luận vào năm 1979 rằng tỷ lệ đồng vị carbon của một số loại đá trầm tích được tìm thấy ở Greenland là tàn dư của chất hữu cơ. Đã có nhiều tranh luận về niên đại chính xác của các tảng đá, Schidlowski cho rằng chúng có tuổi khoảng 3,8 Ga, trong khi những người khác cho rằng độ tuổi "khiêm tốn" hơn là 3,6 Ga. Trong cả hai trường hợp, đó là một thời gian rất ngắn để abiogen có được đã diễn ra, và nếu Schidlowski đúng thì có thể coi là một khoảng thời gian quá ngắn. Vụ bắn phá hạng nặng muộn và sự "tan chảy lại" của lớp vỏ mà nó gợi ý cung cấp một dòng thời gian mà theo đó điều này có thể xảy ra: sự sống hoặc được hình thành ngay sau Vụ ném bom hạng nặng muộn, hoặc nhiều khả năng đã sống sót sau nó, đã phát sinh sớm hơn trong Hadean. Một nghiên cứu năm 2002 cho thấy rằng những tảng đá mà Schidlowski tìm thấy thực sự thuộc nhóm tuổi lớn hơn trong độ tuổi có thể có, khoảng 3,85 Ga, cho thấy khả năng thứ hai là câu trả lời hợp lý nhất. Các nghiên cứu từ năm 2005, 2006 và 2009 không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy tỷ lệ carbon nhẹ đồng vị là cơ sở cho các tuyên bố ban đầu. Một nghiên cứu tương tự về đá Jack Hills từ năm 2008 cho thấy dấu vết của loại chất chỉ thị hữu cơ tiềm năng tương tự. Thorsten Geisler thuộc Viện Khoáng vật học tại Đại học Münster đã nghiên cứu dấu vết cacbon bị giữ lại trong các mảnh nhỏ kim cương và than chì bên trong các zircon có niên đại 4,25 Ga. Tỷ lệ cacbon-12 so với cacbon-13 thường cao bất thường một dấu hiệu của sự "xử lý" bởi sự sống. Các mô hình máy tính ba chiều được phát triển vào tháng 5 năm 2009 bởi một nhóm tại Đại học Colorado tại Boulder cho rằng phần lớn vỏ Trái đất và các vi khuẩn sống trong đó có thể sống sót sau vụ bắn phá. Mô hình của họ cho thấy rằng mặc dù bề mặt Trái đất đã được khử trùng, lỗ phun thủy nhiệt bên dưới bề mặt Trái đất có thể đã ươm mầm sự sống bằng cách cung cấp nơi trú ẩn cho vi khuẩn ưa nhiệt. Vào tháng 4 năm 2014, các nhà khoa học báo cáo đã tìm thấy bằng chứng về sao băng trên mặt đất lớn nhất sự kiện va chạm cho đến nay gần Vành đai đá xanh Barberton. Họ ước tính vụ va chạm xảy ra khoảng 3,26 tỷ năm trước và vật va chạm có chiều rộng xấp xỉ . Miệng núi lửa từ sự kiện này, nếu vẫn còn tồn tại, vẫn chưa được tìm thấy. Nguyên nhân có thể === Di cư đến hành tinh khổng lồ === Trong mô hình Nice, sự kiện này là kết quả của sự mất ổn định động lực ở bên ngoài Hệ Mặt trời. Mô phỏng mô hình Nice ban đầu của Gomes và cộng sự. bắt đầu với các hành tinh khổng lồ của Hệ Mặt trời trong một cấu hình quỹ đạo chặt chẽ được bao quanh bởi một vành đai xuyên Sao Hải Vương. Các vật thể từ vành đai này đi lạc vào quỹ đạo xuyên qua các hành tinh, khiến quỹ đạo của các hành tinh di chuyển trong vài trăm triệu năm. Quỹ đạo của Sao Mộc và Sao Thổ trôi ra xa nhau từ từ cho đến khi chúng vượt qua cộng hưởng quỹ đạo 2:1, khiến cho độ lệch tâm của quỹ đạo của chúng tăng lên. Quỹ đạo của các hành tinh trở nên không ổn định và Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương nằm rải rác trên các quỹ đạo rộng hơn làm gián đoạn vành đai bên ngoài, gây ra vụ bắn phá sao chổi khi chúng đi vào quỹ đạo xuyên qua hành tinh. Sự tương tác giữa các vật thể và các hành tinh cũng thúc đẩy sự di chuyển nhanh hơn của quỹ đạo Sao Mộc và Sao Thổ. Sự di chuyển này gây ra sự cộng hưởng quét qua vành đai tiểu hành tinh, làm tăng độ lệch tâm của nhiều tiểu hành tinh cho đến khi chúng đi vào bên trong Hệ Mặt trời và tác động đến các hành tinh trên mặt đất. Mô hình Nice đã trải qua một số sửa đổi kể từ lần xuất bản đầu tiên. Các hành tinh khổng lồ hiện bắt đầu ở dạng đa cộng hưởng do sự di chuyển sớm được thúc đẩy bởi khí qua đĩa tiền hành tinh. Tương tác với trans- Vành đai Hải Vương tinh cho phép chúng thoát khỏi vùng cộng hưởng sau vài trăm triệu năm. Cuộc chạm trán giữa các hành tinh tiếp theo bao gồm một cuộc chạm trán giữa một người khổng lồ băng và Sao Thổ đẩy khối băng khổng lồ lên quỹ đạo cắt ngang Sao Mộc, sau đó là cuộc chạm trán với Sao Mộc đẩy khối băng khổng lồ ra ngoài. Kịch bản nhảy-Sao Mộc này nhanh chóng làm tăng sự tách biệt giữa Sao Mộc và Sao Thổ, hạn chế tác động của sự quét cộng hưởng lên các tiểu hành tinh và các hành tinh thuộc hệ đất đá.< ref name=Morbidelli_etal_2010>{{cite tạp chí |author1=Morbidelli, Alessandro |author2=Brasser, Ramon |author3=Gomes, Rodney |author4=Levison, Harold F. |author5=Tsiganis, Kleomenis |title=Bằng chứng từ vành đai tiểu hành tinh cho một quá trình tiến hóa dữ dội trong quá khứ của quỹ đạo Sao Mộc |journal=The Astronomical Journal |date=2010 |volume=140 |issue=5 |pages=1391–1401 |doi=10.1088/0004-6256/140/5/1391 |arxiv=1009.1521 | bibcode=2010AJ....140.1391M|s2cid=8950534 }</ref> Mặc dù điều này là cần thiết để duy trì độ lệch tâm thấp của các hành tinh thuộc hệ đất đá và tránh để vành đai tiểu hành tinh có quá nhiều tiểu hành tinh có độ lệch tâm cao, nhưng nó cũng làm giảm một phần nhỏ các tiểu hành tinh bị loại khỏi vành đai tiểu hành tinh chính, để lại dải bên trong là nguồn chính tạo ra các vật va chạm của LHB. Sao băng khổng lồ thường bị đẩy ra sau cuộc chạm trán với Sao Mộc, khiến một số người cho rằng Hệ Mặt Trời bắt đầu từ năm hành tinh khổng lồ. Tuy nhiên, các công trình gần đây đã phát hiện ra rằng các tác động từ vành đai tiểu hành tinh bên trong này sẽ không đủ để giải thích sự hình thành của vụ va chạm cổ xưa [[spherule] ] các lớp và bể mặt trăng, và vành đai tiểu hành tinh có lẽ không phải là nguồn gốc của Vụ ném bom hạng nặng muộn. Sự hình thành muộn của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương Theo một mô phỏng vi hành tinh về quá trình hình thành hệ hành tinh, các hành tinh ngoài cùng là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương hình thành rất chậm, trong khoảng thời gian vài tỷ năm. Harold Levison và nhóm của ông cũng đề xuất rằng mật độ vật chất tương đối thấp ở bên ngoài Hệ Mặt trời trong quá trình hình thành hành tinh sẽ làm chậm đáng kể quá trình bồi tụ của chúng. Do đó, sự hình thành muộn của các hành tinh này được cho là một nguyên nhân khác gây ra LHB. Tuy nhiên, các tính toán gần đây về dòng khí kết hợp với sự phát triển chạy trốn của vi thể hành tinh trong Hệ Mặt trời bên ngoài ngụ ý rằng Hành tinh Jovian hình thành cực kỳ nhanh chóng, theo thứ tự 10 My, không hỗ trợ lời giải thích này cho LHB. Giả thuyết hành tinh V Giả thuyết Hành tinh V đặt ra rằng hành tinh đất đá thứ năm đã gây ra Vụ bắn phá hạng nặng muộn khi quỹ đạo siêu ổn định của nó đi vào vành đai tiểu hành tinh bên trong. Hành tinh đất đá thứ năm giả định, Hành tinh V, có khối lượng nhỏ hơn một nửa Sao Hỏa và ban đầu có quỹ đạo giữa Sao Hỏa và vành đai tiểu hành tinh. Quỹ đạo của Hành tinh V trở nên không ổn định do sự nhiễu loạn từ các hành tinh bên trong khác khiến nó giao nhau với vành đai tiểu hành tinh bên trong. Sau những lần chạm trán gần với Hành tinh V, nhiều tiểu hành tinh đi vào quỹ đạo xuyên qua Trái đất, gây ra Vụ bắn phá hạng nặng muộn. Hành tinh V cuối cùng đã bị mất, có khả năng lao vào Mặt trời. Trong các mô phỏng số, sự phân bố không đồng đều của các tiểu hành tinh, với các tiểu hành tinh tập trung nhiều vào vành đai tiểu hành tinh bên trong, đã được chứng minh là cần thiết để tạo ra LHB thông qua cơ chế này. Một phiên bản thay thế của giả thuyết này trong đó các vật thể va chạm mặt trăng là mảnh vụn do Hành tinh V va chạm với Sao Hỏa, hình thành Lưu vực Borealis, đã được đề xuất để giải thích số lượng thấp các lưu vực mặt trăng khổng lồ so với các miệng hố và thiếu bằng chứng về các vật va chạm của sao chổi. Sự gián đoạn của tiểu hành tinh băng qua sao Hỏa Một giả thuyết do Matija Ćuk đề xuất thừa nhận rằng một số tác động hình thành lưu vực gần đây nhất là kết quả của sự gián đoạn do va chạm của một tiểu hành tinh lớn băng qua Sao Hỏa. Tiểu hành tinh có kích thước Vesta này là tàn tích của một quần thể ban đầu lớn hơn nhiều so với vành đai tiểu hành tinh chính hiện tại. Hầu hết các tác động trước Imbrium là do các vật thể bay ngang qua Sao Hỏa này, với đợt bắn phá ban đầu kéo dài cho đến 4,1 tỷ năm trước. Sau đó là một thời kỳ không có nhiều tác động hình thành lưu vực, trong đó từ trường mặt trăng suy giảm. Sau đó, khoảng 3,9 tỷ năm trước, một vụ va chạm thảm khốc đã làm gián đoạn tiểu hành tinh cỡ Vesta, làm tăng đáng kể số lượng vật thể bay ngang qua Sao Hỏa. Nhiều vật thể trong số này sau đó tiến hóa thành các quỹ đạo xuyên qua Trái đất, tạo ra sự tăng đột biến về tốc độ va chạm với Mặt Trăng trong đó một số vùng va chạm Mặt Trăng cuối cùng được hình thành. Ćuk chỉ ra rằng từ tính còn sót lại yếu hoặc không có ở một số lưu vực gần đây nhất và sự thay đổi trong phân bố kích thước-tần số của các miệng hố hình thành trong đợt bắn phá muộn này là bằng chứng ủng hộ giả thuyết này về sự thay đổi trong phân bố kích thước-tần số của các miệng hố đang gây tranh cãi. Các nguồn tiềm năng khác Một số nguồn có thể khác của Vụ ném bom hạng nặng muộn đã được điều tra. Trong số này có các vệ tinh Trái đất bổ sung quay quanh quỹ đạo độc lập hoặc dưới dạng trojan mặt trăng, các vi thể hành tinh còn sót lại từ quá trình hình thành các hành tinh trên mặt đất, các quỹ đạo đồng quỹ đạo của Trái đất hoặc Sao Kim và sự tan vỡ của một tiểu hành tinh lớn ở vành đai chính. Các vệ tinh khác của Trái đất trên các quỹ đạo độc lập đã được chứng minh là nhanh chóng bị thu vào vùng cộng hưởng trong quá trình mở rộng quỹ đạo do thủy triều ban đầu của Mặt trăng và bị mất hoặc bị phá hủy trong vòng vài triệu năm. Người ta phát hiện thấy các trojan mặt trăng bị mất ổn định trong vòng 100 triệu năm do cộng hưởng mặt trời khi Mặt trăng đạt tới 27 bán kính Trái đất.< tên tham chiếu=Cuk_Gladman_2009>{{cite tạp chí|last=Ćuk|first=Matija|author2=Gladman, Brett J. |title=Số phận của các Trojan nguyên thủy trên mặt trăng|journal=Icarus|date=2009|volume=199|issue=2 |pages=237–244|doi=10.1016/j.icarus.2008.10.022|bibcode=2009Icar..199..237C}</ref> Các vi thể hành tinh còn sót lại từ quá trình hình thành các hành tinh trên mặt đất cũng được cho là đã cạn kiệt nhanh chóng do va chạm và phóng ra để hình thành lưu vực mặt trăng cuối cùng.<ref name=Bottke_etal_2007>{{cite tạp chí|last=Bottke|first=William F.|author2=Levison, Harold F. |author3=Nesvorný, David |author4= Dones, Luke |title=Các vi thể hành tinh còn sót lại từ quá trình hình thành hành tinh trên mặt đất có thể tạo ra Vụ bắn phá nặng nề muộn trên mặt trăng không?|journal=Icarus|date=2007|volume=190|issue=1|pages=203–223|doi=10.1016/j. icarus.2007.02.010|bibcode=2007Icar..190..203B}</ref> Sự ổn định lâu dài của các quỹ đạo đồng quỹ đạo của Trái đất nguyên thủy hoặc Sao Kim (trojan hoặc vật thể có quỹ đạo hình móng ngựa) kết hợp với việc thiếu các quan sát hiện tại chỉ ra rằng chúng dường như không đủ phổ biến để đóng góp cho LHB.<ref name=Cuk_etal_2012>{{cite tạp chí|last=Cuk, M.|author2=Hamilton, D. P. |author3=Holman, M. J. |title=Long- độ ổn định của quỹ đạo móng ngựa|journal=Thông báo hàng tháng của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia|date=2012|volume=426|issue=4|pages=3051–3056|doi=10.1111/j.1365-2966.2012.21964. x|bibcode=2012MNRAS.426.3051C|arxiv = 1206.1888 |s2cid=2614886 }</ref> Việc tạo ra LHB từ sự gián đoạn va chạm của một tiểu hành tinh ở vành đai chính được cho là cần tối thiểu một thiên thể mẹ dài 1.000–1.500 km với nhiều nhất điều kiện ban đầu thuận lợi.<ref name=Ito_Malhotra_2006>{{cite tạp chí|last=Ito|first=Takashi|author2=Malhotra, Renu |title=Vận chuyển động các mảnh tiểu hành tinh từ cộng hưởng ν6|journal=Advances in Space Research|date= 2006|volume=38|issue=4|pages=817–825|doi=10.1016/j.asr.2006.06.007|arxiv=astro-ph/0611548|bibcode=2006AdSpR..38..817I|s2cid=17843014} </ref> Các mảnh vụn được tạo ra do va chạm giữa các hành tinh bên trong, hiện đã bị mất, cũng được đề xuất là nguồn của LHB.<ref name=Volk_Gladman_2015>{{cite tạp chí|last1=Volk|first1=Kathryn|last2=Gladman| first2=Brett|title=Hợp nhất và nghiền nát các ngoại hành tinh: Nó có xảy ra ở đây không?|journal=The Astrophysical Journal Letters|volume=806|issue=2|page=L26|doi=10.1088/2041-8205/806/2/L26| arxiv=1502.06558|bibcode = 2015ApJ...806L..26V |year=2015|s2cid=118052299}</ref> Hệ thống ngoại vi có thể bị ném bom hạng nặng muộn Đã tìm thấy bằng chứng về các điều kiện giống như vụ Bắn phá hạng nặng muộn xung quanh ngôi sao Eta Corvi. Xem thêm Tài liệu tham khảo
19857675
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anime%20n%C4%83m%202025
Anime năm 2025
Dưới đây là danh sách anime (bao gồm anime truyền hình dài tập, phim anime điện ảnh, ONA, OVA) sẽ ra mắt trong năm 2025. Phim điện ảnh Phim truyền hình Tháng 1 - tháng 3 Chưa công bố tháng phát sóng Tham khảo Hoạt hình năm 2025 Anime năm 2025 Nhật Bản năm 2025
19857677
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zugodactylites
Zugodactylites
Zugodactylites là một chi động vật chân đầu đã tuyệt chủng thuộc tầng Toarc dưới của Jura Sớm, vùng cúc đá Fibulatum. Hóa thạch của các loài thuộc chi này được tìm thấy ở châu Âu, Nga và Canada. Xem thêm Danh sách chi Phân lớp Cúc đá Tham khảo Sự sống tầng Toarac Cúc đá Jura Sớm châu Âu Cúc đá châu Á Cúc đá Bắc Mỹ Dactylioceratidae
19857679
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zugokosmoceras
Zugokosmoceras
Zugokosmoceras là một chi động vật chân đầu đã tuyệt chủng thuộc Phân lớp Cúc đá. Có hai loài thuộc chi Zugokosmoceras được ghi nhận, gồm Zugokosmoceras obductum và Zugokosmoceras jason. Mẫu vật của chi này được tìm thấy ở Thụy Sĩ và Pháp. Zugokosmoceras thuộc kỷ Jura. Tham khảo Chi Phân lớp Cúc đá
19857700
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tim%20Hall
Tim Hall
Tim Hall (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Luxembourg hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1. Sự nghiệp thi đấu Trước khi thi đấu tại V.League Tim Hall bắt đầu chơi bóng ở đội trẻ của F91 Dudelange. Sau đó anh chuyển ra nước ngoài và ký hợp đồng với câu lạc bộ Standard Liège tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ. Sau khi chuyển đến đội trẻ của 1. FC Saarbrücken, anh thi đấu tại A-Junioren Bundesliga từ năm 2014 đến 2016 (ra sân 27 trận và ghi 2 bàn thắng), trở thành nhà vô địch U-19 Saarland Cup năm 2015 và 2016. Trong mùa giải 2016/17, anh chuyển đến đội dự bị của SV Elversberg. Sau kỳ nghỉ đông, Hall tập luyện cùng đội 1 của câu lạc bộ nhưng không được sử dụng. Trong mùa giải 2017/18, Hall chơi cho câu lạc bộ Lierse S.K.. Chỉ sau 4 trận đấu và câu lạc bộ giải thể cuối mùa giải, Hall trở về quê nhà và thi đấu cho FC Progrès Niederkorn ở mùa giải 2018/19. Một năm sau, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ FC Karpaty Lviv ở Ukraina. Anh chơi 18 trận ở giải quốc nội cho đội bóng, ghi 1 bàn trong trận thua 1-2 trước FK Oleksandrija. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2020, anh chuyển đến câu lạc bộ Gil Vicente tại Giải bóng đá Ngoại hạng Bồ Đào Nha. Tuy vậy, anh chỉ được sử dụng trong trận đấu tranh chức vô địch với S.L. Benfica và sau đó chuyển đến Wisła Kraków tại Ekstraklasa. Tuy nhiên, chỉ sau 11 ngày, hợp đồng của anh bị chấm dứt do không đáp ứng yêu cầu về thể lực. Vào tháng 8 năm 2021, Hall ký hợp đồng với câu lạc bộ Ethnikos Achna FC ở Cộng hòa Síp. Tại đây, anh ra sân tổng cộng 28 lần trong mùa giải đầu tiên, nhưng phải nghỉ thi đấu đến cuối mùa giải do bị gãy ngón chân vào tháng 4. Hợp đồng của anh sau đó đáo hạn và Hall không thi đấu cho câu lạc bộ nào trong vòng 6 tháng trước khi được câu lạc bộ Újpest FC tại Nemzeti Bajnokság I ký hợp đồng vào tháng 1 năm 2023. Tuy nhiên, hợp đồng đáo hạn vào ngày 21 tháng 2 năm 2024. Tại thời điểm này, anh đã có tổng cộng 31 lần ra sân cho câu lạc bộ. Hà Nội Ngày 7 tháng 3 năm 2024, Hall gia nhập câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1 bằng bản hợp đồng kéo dài 1 năm. Sự nghiệp quốc tế Hall ra mắt quốc tế cho Luxembourg vào ngày 29 tháng 3 năm 2017, trong trận thua 0-2 trước Cabo Verde. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1997 Nhân vật còn sống Hậu vệ bóng đá nam Trung vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Luxembourg Cầu thủ bóng đá Luxembourg ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá Lierse S.K. Cầu thủ bóng đá FC Progrès Niederkorn Cầu thủ bóng đá FC Karpaty Lviv Cầu thủ bóng đá Gil Vicente F.C. Cầu thủ bóng đá Wisła Kraków Cầu thủ bóng đá Ethnikos Achna FC Cầu thủ bóng đá Újpest FC Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (2016) Cầu thủ bóng đá Regionalliga Cầu thủ bóng đá Belgian First Division B Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Luxembourg Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Ukraina Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất Síp Cầu thủ bóng đá Nemzeti Bajnokság I Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ukraina Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ba Lan Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Cộng hòa Síp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hungary Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Luxembourg Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Luxembourg Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Luxembourg
19857716
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Tontokoro%201662
Động đất Tontokoro 1662
là trận động đất xảy ra vào lúc 23:01 (JST), ngày 30 tháng 10 năm 1662. Trận động đất có cường độ 7.9 richter, không rõ tâm chấn độ sâu. Trận động đất đã gây ra sóng thần cao lên đến 4-5m. Hậu quả trận động đất đã làm 200 người thiệt mạng. Tham khảo Siêu động đất tại Nhật Bản Nhật Bản năm 1662 Sóng thần tại Nhật Bản Động đất Thời kỳ Edo Lịch sử Miyazaki
19857725
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%C4%A9a%20v%E1%BB%A5%20qu%C3%A2n%20s%E1%BB%B1%20t%E1%BA%A1i%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
Nghĩa vụ quân sự tại Trung Quốc
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ra đời dưới hình thức lực lượng quân đội hoàn toàn mang tính tự nguyện. Năm 1955, như một phần nằm trong nỗ lực hiện đại hóa PLA, Đạo luật Nghĩa vụ quân sự đầu tiên đã tạo ra một hệ thống nghĩa vụ quân sự bắt buộc trên toàn quốc. Kể từ cuối thập niên 1970, quân đội Trung Quốc dần trở thành một lực lượng hỗn hợp bao gồm cả lính nghĩa vụ và lính tham gia tự nguyện. Những quân nhân đi nghĩa vụ khi đang chấp hành nhiệm vụ có thể ở lại trong quân ngũ dưới hình thức là lính tình nguyện trong khoảng thời gian tổng cộng là 16 năm. Tham khảo Quân sự Trung Quốc Trung Quốc
19857732
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20Shuttle%E2%80%93Mir
Chương trình Shuttle–Mir
Shuttle–Mir () là chương trình không gian bao gồm 11 sứ mệnh hợp tác giữa Nga và Hoa Kỳ với các hoạt động như tàu con thoi Mỹ ghé thăm Trạm vũ trụ Hòa Bình của Nga, phi hành gia Nga bay trên tàu con thoi Mỹ, và một phi hành gia Mỹ bay trên tàu Soyuz để tham gia vào các chuyến thám hiểm dài ngày trên Trạm Hòa Bình. Dự án, đôi lúc còn gọi là "Phase One", được triển khai nhằm mục đích cho phép Hoa Kỳ học hỏi kinh nghiệm của Nga về các chuyến bay không gian dài hạn, đồng thời thúc đẩy tinh thần hợp tác giữa hai nước cũng như cơ quan vũ trụ mỗi bên là NASA của Mỹ và Roscosmos của Nga. Shuttle–Mir đã giúp vạch ra phương hướng cho các chương trình hợp tác không gian tiếp theo; cụ thể là Phase Two của dự án chung: xây dựng Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS). Chương trình Shuttle–Mir được khởi động vào năm 1993, với sứ mệnh đầu tiên bắt đầu một năm sau đó. Dự án vẫn tiếp tục cho đến khi hoàn thành theo kế hoạch vào năm 1998. Mười một sứ mệnh tàu con thoi, một chuyến bay chung trên Soyuz và lũy tích gần 1.000 ngày trong không gian của các phi hành gia Mỹ đã diễn ra trong suốt bảy chuyến thám hiểm thời gian dài. Ngoài việc phóng tàu con thoi tới Hòa Bình, Hoa Kỳ còn tài trợ và trang bị dụng cụ khoa học đầy đủ cho mô-đun Spektr (được phóng năm 1995) và mô-đun Priroda (được phóng năm 1996), biến chúng thành các mô-đun de facto của Hoa Kỳ trong suốt những năm tồn tại chương trình Shuttle–Mir. Trong quãng thời gian 4 năm diễn ra chương trình, hai quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực du hành không gian, bao gồm việc đưa phi hành gia người Mỹ đầu tiên phóng cùng tàu vũ trụ Soyuz, phi thuyền lớn nhất từng được chế tạo vào thời điểm đó, và chuyến đi bộ ngoài không gian đầu tiên của Hoa Kỳ sử dụng bộ đồ du hành Orlan của Nga. Có nhiều mối lo ngại đã ảnh hưởng đến Shuttle–Mir, đặc biệt là sự an toàn của Trạm Hòa Bình sau một vụ hỏa hoạn và va chạm, các vấn đề tài chính đối với chương trình không gian đang thiếu hụt ngân sách của Nga, và nỗi lo lắng từ các phi hành gia về thái độ của những người quản lý chương trình. Tuy nhiên, các hoạt động phối hợp đã giúp gặt hái một lượng lớn chuyên môn và kỹ thuật phục vụ xây trạm vũ trụ, cũng như đem lại sự hiểu biết về cách thức hợp tác trong một nhiệm vụ không gian chung, cho phép việc xây dựng ISS diễn ra một cách suôn sẻ. Bối cảnh Nguồn gốc của chương trình có thể truy ngược về Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz năm 1975. Dự án này đã dẫn đến một sứ mệnh chung giữa hai siêu cường trong thời kỳ détente của Chiến tranh Lạnh, đánh dấu lần ghép nối đầu tiên giữa các tàu vũ trụ Apollo của Hoa Kỳ và Soyuz của Liên Xô. Tiếp đó là những cuộc đàm phán giữa NASA và Interkosmos trong thập niên 1970 về chương trình "Shuttle–Salyut" nhằm thực hiện các sứ mệnh phóng tàu con thoi đến Trạm vũ trụ Salyut. Nhiều cuộc thảo luận sau đó vào những năm 1980 thậm chí còn xem xét khả năng đưa tàu con thoi Liên Xô tương lai thuộc chương trình Buran đến trạm vũ trụ tương lai của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ý tưởng "Shuttle–Salyut" này chưa bao giờ trở thành hiện thực trong thời gian tồn tại chương trình Interkosmos của Liên Xô. Mọi thứ đã thay đổi sau khi Liên Xô tan rã: Chiến tranh Lạnh và Cuộc chạy đua vào không gian kết thúc dẫn đến việc cắt giảm tài trợ cho trạm vũ trụ mô-đun của Hoa Kỳ (ban đầu có tên là Freedom), vốn đã được lên kế hoạch từ đầu những năm 1980. Những khó khăn tương tự về ngân sách cũng đang xảy ra ở nhiều quốc gia khác với dự án trạm không gian, khiến quan chức chính phủ Mỹ phải tiến hành đàm phán với các đối tác ở châu Âu, Nga, Nhật Bản và Canada vào đầu thập niên 1990 để triển khai một dự án trạm vũ trụ hợp tác đa quốc gia. Ở Liên bang Nga, quốc gia kế thừa phần lớn Liên Xô và chương trình không gian của nước này, tình hình xấu đi trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hậu Xô Viết đã dẫn đến các vấn đề tài chính ngày càng gia tăng đối với chương trình trạm vũ trụ. Việc xây dựng Mir-2 để thay thế cho Trạm Hòa Bình cũ kỹ đã trở thành ảo vọng dù cho khối cơ sở của nó là DOS-8 vừa được chế tạo. Những bước phát triển này dẫn đến việc tập hợp các đối thủ cũ lại với nhau bằng chương trình Shuttle–Mir, mở đường cho Trạm vũ trụ Quốc tế, một dự án chung tập hợp nhiều đối tác trên thế giới. Tháng 6 năm 1992, Tổng thống Mỹ George H. W. Bush và Tổng thống Nga Boris Nikolayevich Yeltsin đã đồng ý cùng chung sức khám phá không gian bằng việc ký Thỏa thuận giữa Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Nga về hợp tác thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình. Thỏa thuận này kêu gọi thiết lập một dự án không gian chung ngắn hạn, trong đó một phi hành gia người Mỹ sẽ lên Trạm vũ trụ Hòa Bình của Nga, và hai phi hành gia người Nga sẽ lên tàu con thoi của Mỹ. Tháng 9 năm 1993, Phó Tổng thống Mỹ Al Gore Jr. và Thủ tướng Nga Viktor Stepanovich Chernomyrdin đã công bố kế hoạch xây dựng một trạm vũ trụ mới mà sau này trở thành Trạm vũ trụ Quốc tế. Nhằm chuẩn bị cho chương trình này, họ còn đồng thuận rằng Hoa Kỳ sẽ tham gia sâu vào dự án Trạm Hoà Bình trong những năm tới dưới tên mã Phase One (với việc xây dựng ISS là Phase Two). Chuyến bay tàu con thoi đầu tiên đến Hoà Bình chỉ đơn thuần là một sứ mệnh dạng gặp gỡ mang tên STS-63, nhưng tiếp theo đó, từ STS-71 đến STS-91 là chín nhiệm vụ ghép nối Shuttle–Mir. Tàu con thoi đảm nhiệm việc luân chuyển phi hành đoàn và cung cấp hàng tiếp tế, trong đó ở một nhiệm vụ là STS-74, nó đã mang theo một cặp mảng quang điện và mô-đun ghép nối tới Trạm Hoà Bình. Nhiều thí nghiệm khoa học khác nhau cũng đã được tiến hành, cả trên các chuyến bay tàu con thoi lẫn thời gian dài ở trạm vũ trụ. Dự án cũng chứng kiến phi vụ phóng của hai mô-đun mới là Spektr và Priroda tới Hòa Bình, nơi chúng sẽ được các phi hành gia Mỹ sử dụng làm chỗ ở và phòng thí nghiệm để tiến hành phần lớn hoạt động khoa học của họ trên trạm. Những sứ mệnh này đã giúp NASA lẫn Roscosmos học được rất nhiều điều về cách thức làm việc hiệu quả nhất trong không gian với các đối tác quốc tế, cũng như phương pháp nhằm giảm thiểu rủi ro liên quan đến việc lắp ráp một trạm vũ trụ lớn trên quỹ đạo, như sẽ phải làm với ISS. Dự án này cũng đóng vai trò là một mưu kế chính trị của chính phủ Mỹ nhằm cung cấp một kênh ngoại giao để NASA tham gia tài trợ cho chương trình không gian đang thiếu kinh phí của Nga. Điều này lại cho phép chính phủ Nga mới thành lập tiếp tục hoạt động của Trạm Hòa Bình, bên cạnh toàn bộ chương trình không gian của Nga, đảm bảo sự thân thiện của chính phủ Nga đối với Hoa Kỳ. Các chuyến bay Increment Ngoài phi vụ tàu con thoi đến trạm vũ trụ, Phase One còn bao gồm bảy "Increment", hay những chuyến bay dài ngày trên Hòa Bình của các phi hành gia người Mỹ. Bảy nhà du hành vũ trụ tham gia Increment là Norman Thagard, Shannon Lucid, John Blaha, Jerry Linenger, Michael Foale, David Wolf và Andrew Thomas lần lượt được đưa tới Star City, Nga để tham gia khóa đào tạo các khía cạnh khác nhau về hoạt động của Hòa Bình và tàu vũ trụ Soyuz, phương tiện được sử dụng để vận chuyển đến và đi từ trạm. Phi hành gia còn được thực hành những chuyến đi bộ trong không gian bên ngoài Hòa Bình cũng như học tiếng Nga, ngôn ngữ sẽ được sử dụng trong suốt sứ mệnh của họ để nói chuyện với các phi hành gia Nga trên trạm và Trung tâm Kiểm soát Sứ mệnh ở tỉnh Moskva là TsUP. Trong những chuyến thám hiểm trên Hòa Bình, các phi hành gia đã thực hiện nhiều thí nghiệm khác nhau, bao gồm sự phát triển của cây trồng và tinh thể, đồng thời chụp hàng trăm bức ảnh về Trái Đất. Họ cũng hỗ trợ bảo trì và sửa chữa trạm sau nhiều sự cố khác nhau như hỏa hoạn, va chạm, mất điện, quay không kiểm soát và rò rỉ độc hại. Tổng cộng, các phi hành gia người Mỹ đã dành gần một nghìn ngày trên Hòa Bình, cho phép NASA tìm hiểu rất nhiều điều về các chuyến bay vũ trụ dài hạn, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý phi hành gia và cách sắp xếp lịch trình thí nghiệm tốt nhất cho các đội bay trên trạm vũ trụ. Trạm vũ trụ Hòa Bình Trạm Hòa Bình được xây dựng từ năm 1986 đến năm 1996, và là trạm vũ trụ mô-đun đầu tiên trên thế giới. Đây là trạm nghiên cứu dài hạn có người ở thường xuyên đầu tiên trong không gian, và trước đó đã giữ kỷ lục về sự hiện diện liên tục lâu nhất của con người trong vũ trụ, chỉ còn 8 ngày là đủ 10 năm. Mục đích của Hòa Bình là cung cấp một phòng thí nghiệm khoa học lớn có thể ở được trong không gian, và thông qua một số sự hợp tác bao gồm Interkosmos và Shuttle–Mir, trạm đã mở rộng cửa trên phạm vi quốc tế cho các phi hành gia của nhiều nước khác nhau. Trạm tồn tại cho đến ngày 23 tháng 3 năm 2001, tại thời điểm đó nó đã bị phá hủy một cách có chủ ý và vỡ tung trong quá trình tái thâm nhập khí quyển. Hòa Bình được dựa trên loạt Trạm vũ trụ Salyut mà Liên Xô từng phóng trước đây (bảy Trạm vũ trụ Salyut đã được phóng từ năm 1971), chủ yếu nhận tiếp tế từ tàu vũ trụ Soyuz và tàu vận tải Tiến bộ của phi hành đoàn Nga. Tàu con thoi Buran được lên kế hoạch ​​sẽ đến thăm Hòa Bình, nhưng chương trình của nó đã bị hủy bỏ sau chuyến bay vũ trụ không người lái đầu tiên. Các tàu con thoi Hoa Kỳ đến thăm trạm đã sử dụng docking collar Androgynous Peripheral Attach System vốn được thiết kế cho Buran, gắn trên một giá đỡ mà mục đích ban đầu là để sử dụng với Trạm vũ trụ Freedom của Hoa Kỳ. Với việc tàu con thoi cập bến Hòa Bình, sự mở rộng tạm thời các khu vực sinh hoạt và làm việc đã tạo thành khu phức hợp tàu vũ trụ lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, với tổng khối lượng . Tàu con thoi Tàu con thoi là một hệ thống tàu vũ trụ bay quanh quỹ đạo Trái Đất tầm thấp có thể tái sử dụng một phần, được vận hành từ năm 1981 đến năm 2011 bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) như một phần của dự án tàu con thoi. Tên chương trình chính thức của nó là Hệ thống Vận tải Vũ trụ (STS), bắt nguồn từ kế hoạch năm 1969 về một hệ thống tàu vũ trụ có thể tái sử dụng, trong đó nó là hạng mục duy nhất được tài trợ để phát triển. Ngoài nguyên mẫu bị hủy bỏ, năm hệ thống tàu con thoi hoàn chỉnh đã được chế tạo và sử dụng trong tổng số 135 phi vụ từ năm 1981 đến năm 2011, với địa điểm phóng là Trung tâm vũ trụ Kennedy (KSC) ở Florida. Tổng thời gian thực hiện nhiệm vụ của đội tàu con thoi là 1322 ngày, 19 giờ, 21 phút và 23 giây. Tàu con thoi có thể mang tải trọng lớn đến các quỹ đạo khác nhau, và trong các chương trình Shuttle–Mir và ISS, nó đã cung cấp sự luân chuyển phi hành đoàn cũng như mang theo nhiều hàng tiếp tế, mô-đun và thiết bị khác nhau đến các trạm. Mỗi tàu con thoi được thiết kế với tuổi thọ dự kiến ​​là 100 lần phóng hoặc 10 năm hoạt động. Chín nhiệm vụ ghép nối đã được gửi tới Hòa Bình từ năm 1995 đến năm 1997 trong Phase One: Tàu con thoi Atlantis đã cập bến Hòa Bình bảy lần, với Discovery và Endeavour mỗi tàu thực hiện một nhiệm vụ ghép nối với Hòa Bình. Vì tàu con thoi Columbia là chiếc lâu đời nhất và nặng nhất trong hạm đội, nó không phù hợp để hoạt động hiệu quả ở độ nghiêng 51,6 độ của Hòa Bình (và sau này là của ISS). Do đó, Columbia đã không được trang bị thêm chốt gió bên ngoài cũng như Orbital Docking System (tạm dịch: Hệ thống Ghép nối Quỹ đạo) cần thiết, và chưa bao giờ bay tới một trạm vũ trụ nào. Dòng thời gian Bắt đầu một sự hợp tác mới (1994) Phase One của chương trình Shuttle–Mir bắt đầu vào ngày 3 tháng 2 năm 1994 với phi vụ phóng tàu con thoi Discovery trong sứ mệnh thứ 18 của nó là STS-60. Nhiệm vụ kéo dài 8 ngày này vừa là phi vụ tàu con thoi đầu tiên trong năm đó, vừa là chuyến bay đầu tiên của một nhà du hành vũ trụ người Nga, Sergey Konstantinovich Krikalyov, trên tàu con thoi của Mỹ. Ngoài ra, sứ mệnh này cũng đánh dấu bước khởi đầu sự tăng cường hợp tác trong lĩnh vực không gian giữa hai quốc gia sau 37 năm kể từ khi Cuộc đua vào vũ trụ bắt đầu. Là một phần của thỏa thuận quốc tế về chuyến bay đưa con người vào không gian, STS-60 là phi vụ thứ hai của mô-đun điều áp Spacehab và đánh dấu trọng tải thứ một trăm thuộc chương trình "Getaway Special" bay vào vũ trụ. Trọng tải chính của nhiệm vụ là Wake Shield Facility (hay WSF), một thiết bị nhằm tạo ra màng bán dẫn mới cho các bộ phận điện tử tiên tiến. WSF đã được gắn ở cuối cánh tay robot của Discovery trong suốt chuyến bay. Trong thời gian diễn ra sứ mệnh, phi hành đoàn Discovery cũng đã tiến hành nhiều thí nghiệm khác nhau trên mô-đun Spacehab trong khoang tải trọng của tàu quỹ đạo, và tham gia kết nối video âm thanh hai chiều downlink trực tiếp giữa họ và ba nhà du hành vũ trụ người Nga trên Trạm Hòa Bình, Valery Vladimirovich Polyakov, Viktor Mikhailovich Afanasyev và Yury Vladimirovich Usachov (đang thực hiện các chuyến bay thám hiểm LD-4 và EO-15 trên trạm). Người Mỹ đặt chân lên Trạm Hòa Bình (1995) Phi vụ phóng tàu con thoi Discovery vào ngày 3 tháng 2 đã mở đầu cho năm 1995. Sứ mệnh STS-63 này của Discovery là phi vụ tàu con thoi thứ hai trong chương trình, đồng thời là chuyến bay đầu tiên của tàu con thoi với một nữ phi công (mang tên Eileen Collins). Được xem là sứ mệnh "cận Hòa Bình", chuyến bay kéo dài 8 ngày này đã chứng kiến ​​cuộc hẹn đầu tiên của tàu con thoi với Hòa Bình khi nhà du hành vũ trụ người Nga Vladimir Georgiyevich Titov và phần còn lại của phi hành đoàn Discovery tiếp cận trạm trong phạm vi 11 m. Sau cuộc gặp gỡ, Collins đã thực hiện một chuyến bay vòng quanh trạm. Sứ mệnh này đóng vai trò như một buổi diễn tập trước cho nhiệm vụ cập bến đầu tiên trong chương trình là STS-71, đồng thời cũng tiến hành thử nghiệm các kỹ thuật và thiết bị sẽ được sử dụng trong những nhiệm vụ ghép nối tiếp theo. Năm tuần sau chuyến bay của Discovery, phi vụ phóng Soyuz TM-21 vào ngày 14 tháng 3 đã đưa đoàn thám hiểm EO-18 tới Hòa Bình. Đội bay bao gồm các nhà du hành vũ trụ người Nga Vladimir Nikolayevich Dezhurov và Gennady Mikhailovich Strekalov, cùng với phi hành gia NASA Norman Thagard, người Mỹ đầu tiên bay vào vũ trụ trên tàu Soyuz. Trong chuyến thám hiểm kéo dài 115 ngày của họ, mô-đun khoa học Spektr (đóng vai trò là không gian sinh sống và làm việc cho các phi hành gia Mỹ) đã được phóng trên một tên lửa Proton và cập bến Hòa Bình. Spektr mang theo hơn thiết bị nghiên cứu từ Mỹ và các quốc gia khác. Thành viên của đoàn thám hiểm đã quay trở lại Trái Đất trên tàu con thoi Atlantis sau lần ghép nối đầu tiên với trạm vũ trụ trong sứ mệnh STS-71. Được phóng từ KSC vào ngày 27 tháng 6, mục tiêu chính của STS-71 là triệu tập tàu con thoi Atlantis đến điểm hẹn và thực hiện lần ghép nối đầu tiên giữa tàu con thoi của Mỹ với Trạm Hòa Bình. Ngày 29 tháng 6, Atlantis ghép nối thành công với Hòa Bình, trở thành tàu vũ trụ đầu tiên của Mỹ cập bến với một tàu vũ trụ Nga kể từ Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz năm 1975. Atlantis đã đưa đến các phi hành gia Anatoly Yakovlevich Solovyev và Nikolai Mikhailovich Budarin để lập nên phi đội thám hiểm EO-19, đồng thời đưa về phi hành gia người Mỹ Norman Thagard cũng như các phi hành gia người Nga thuộc đoàn thám hiểm EO-18 là Vladimir Nikolayevich Dezhurov và Gennady Mikhailovich Strekalov. Atlantis cũng thực hiện các cuộc điều tra chung Mỹ-Nga về khoa học đời sống trên quỹ đạo trong mô-đun Spacelab và thực hiện tiếp tế hậu cần cho trạm. Chuyến bay tàu con thoi cuối cùng của năm 1995 là STS-74, được bắt đầu bằng phi vụ phóng tàu Atlantis vào ngày 12 tháng 11 và sau đó vận chuyển Docking Module do Nga chế tạo đến Hòa Bình, cùng với một cặp mảng quang điện mới và các nâng cấp phần cứng khác cho trạm. Docking Module được thiết kế để mang lại nhiều khoảng trống hơn cho tàu con thoi nhằm ngăn chặn mọi va chạm với các mảng quang điện của Hòa Bình trong quá trình ghép nối, một sự cố từng xảy ra và đã được khắc phục trong sứ mệnh STS-71 bằng cách di dời mô-đun Kristall đến vị trí khác trên trạm. Mô-đun này được gắn vào cổng ghép nối của Kristall, giúp phi hành gia không cần phải tiếp tục thực hiện quy trình này trong các nhiệm vụ tiếp theo. Trong suốt chuyến bay, gần nước đã được đưa đến Hòa Bình và các mẫu thí nghiệm bao gồm máu, nước tiểu, nước bọt đã được chuyển sang Atlantis để mang về Trái Đất. Mô-đun Priroda (1996) Sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ trên Hòa Bình bắt đầu từ năm 1996 với phi vụ phóng tàu Atlantis vào ngày 22 tháng 3 trong sứ mệnh STS-76, khi phi hành gia Shannon Lucid của chuyến Increment thứ hai được đưa lên trạm. STS-76 là nhiệm vụ ghép nối thứ ba tới Hòa Bình, sứ mệnh này cũng thể hiện khả năng hậu cần thông qua việc triển khai mô-đun Spacehab và đặt các kiện hàng thí nghiệm lên mô-đun ghép nối của Hòa Bình, đánh dấu chuyến đi bộ ngoài không gian đầu tiên diễn ra xung quanh các phương tiện đã cập bến. Những chuyến đi bộ ngoài không gian được thực hiện từ cabin phi hành đoàn của Atlantis đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với các phi hành gia để chuẩn bị cho những sứ mệnh ghép nối sau này trên Trạm vũ trụ Quốc tế. Lucid đã trở thành người phụ nữ Mỹ đầu tiên sinh sống trên trạm, và sau khi gia hạn Increment thêm sáu tuần do những vấn đề với các tầng đẩy tăng cường nhiên liệu rắn của tàu con thoi, sứ mệnh kéo dài 188 ngày của bà đã lập kỷ lục chuyến bay đơn vào vũ trụ của Hoa Kỳ. Trong thời gian Lucid ở trên Hòa Bình, mô-đun Priroda chứa khoảng phần cứng khoa học của Hoa Kỳ đã ghép nối với trạm. Lucid sử dụng cả Priroda và Spektr để thực hiện 28 thí nghiệm khoa học khác nhau cũng như làm nơi sinh sống. Thời gian lưu trú của bà trên Hòa Bình kết thúc với chuyến bay của Atlantis, được phóng vào ngày 16 tháng 9 trong sứ mệnh STS-79. Đây là nhiệm vụ tàu con thoi đầu tiên mang theo mô-đun kép Spacehab. Hơn hàng tiếp tế đã được chuyển đến Hòa Bình, bao gồm cả nước do pin nhiên liệu của Atlantis tạo ra, ngoài ra còn có những thí nghiệm bao gồm nghiên cứu về chất siêu dẫn, phát triển sụn và các nghiên cứu sinh học khác. Khoảng mẫu thử nghiệm và thiết bị cũng đã được chuyển trở lại từ Hòa Bình về Atlantis, đánh dấu tổng lượng chuyển giao lớn nhất từ ​​trước đến nay. Lần cập bến thứ tư này cũng chứng kiến ​​​​John Blaha chuyển đến Hòa Bình để đảm nhận vị trí phi hành gia Increment thường trú. Việc ông ở lại trạm đã giúp cải thiện hoạt động ở một số lĩnh vực, bao gồm thủ tục chuyển giao cho tàu con thoi đã cập bến, thủ tục "bàn giao" cho phi hành đoàn Mỹ dài hạn, và các liên lạc radio nghiệp dư. Hai chuyến đi bộ ngoài không gian đã được tiến hành trong thời gian Blaha ở trên trạm. Mục tiêu của họ là nhằm loại bỏ các đầu nối điện lực khỏi mảng quang điện 12 năm tuổi trên khối cơ sở và kết nối lại dây cáp với các mảng quang điện mới có hiệu suất cao hơn. Tổng cộng, ông đã dành bốn tháng cùng phi hành đoàn Mir-22 tiến hành nghiên cứu khoa học vật liệu, cơ học chất lưu và khoa học đời sống trước khi quay trở lại Trái Đất vào năm tiếp theo trên tàu Atlantis trong sứ mệnh STS-81. Hỏa hoạn và va chạm (1997) Năm 1997, sứ mệnh STS-81 được triển khai đã thay thế phi hành gia Increment John Blaha sau 118 ngày ở trên Hòa Bình bằng Jerry Linenger. Trong lần cập bến tàu con thoi thứ năm này, phi hành đoàn Atlantis đã chuyển hàng tiếp tế đến trạm và đưa về Trái Đất những cây đầu tiên hoàn thành vòng đời trong không gian; chúng đều đến từ một vụ lúa mì do Shannon Lucid gieo trồng. Trong năm ngày hoạt động phối hợp, các phi đội đã chuyển gần hậu cần đến Hòa Bình và mang nguyên liệu trở lại Atlantis (nhiều nguyên liệu được chuyển giao nhất giữa hai tàu vũ trụ tính đến thời điểm đó). Phi hành đoàn STS-81 cũng thử nghiệm Treadmill with Vibration Isolation Stabilization (tạm dịch: Máy chạy bộ với Hệ thống Cách ly và Ổn định Rung động, viết tắt là TVIS) của tàu con thoi, được thiết kế để sử dụng trên mô-đun Zvezda của Trạm vũ trụ Quốc tế. Các động cơ đẩy phản lực vernier nhỏ của tàu con thoi đã được khai hỏa trong các hoạt động phối hợp để thu thập dữ liệu kỹ thuật nhằm điều chỉnh lại quỹ đạo cho ISS. Sau khi ngắt ghép nối, Atlantis thực hiện một chuyến bay vòng quanh Hòa Bình, để lại Linenger ở trên trạm. Trong thời gian thực hiện Increment, Linenger trở thành người Mỹ đầu tiên đi bộ trong không gian từ một trạm vũ trụ nước ngoài và là người đầu tiên thử nghiệm bộ đồ du hành Orlan-M cùng với nhà du hành vũ trụ người Nga Vasily Vasiliyevich Tsibliyev. Cả ba thành viên của đoàn thám hiểm EO-23 đã thực hiện một chuyến "bay vòng quanh" trên tàu vũ trụ Soyuz: đầu tiên họ ngắt ghép nối khỏi một cổng của trạm, sau đó bay đến và ghép nối lại khoang tàu ở một địa điểm khác theo cách thủ công. Chuyến bay này giúp Linenger trở thành người Mỹ đầu tiên rời trạm vũ trụ trên hai phi thuyền khác nhau (tàu con thoi và Soyuz). Linenger cùng với những đồng đội người Nga Vasily Vasiliyevich Tsibliyev và Aleksandr Ivanovich Lazutkin đã gặp phải một số khó khăn trong sứ mệnh, bao gồm vụ hỏa hoạn nghiêm trọng nhất trên phi thuyền quay quanh quỹ đạo (do thiết bị tạo oxy dự phòng gây ra), hỏng hóc của nhiều hệ thống trên tàu, suýt va chạm với tàu chở hàng tiếp tế Tiến bộ trong quá trình thử nghiệm hệ thống ghép nối thủ công đường dài, và tình trạng mất toàn bộ nguồn điện của trạm. Sự cố mất điện còn gây mất kiểm soát định hướng, dẫn đến tình trạng "nhào lộn" không kiểm soát trong không gian. Phi hành gia NASA tiếp theo ở lại Hòa Bình là Michael Foale. Foale và chuyên gia sứ mệnh người Nga Yelena Vladimirovna Kondakova lên Trạm Hòa Bình bằng tàu Atlantis trong sứ mệnh STS-84. Phi hành đoàn STS-84 đã di chuyển 249 vật phẩm giữa hai phi thuyền cùng với nước, mẫu thí nghiệm, hàng tiếp tế và phần cứng. Một trong những món đồ đầu tiên được chuyển đến Hòa Bình là thiết bị tạo oxy Elektron. Atlantis đã bị dừng ba lần khi đang lùi lại trong quá trình ngắt ghép nối vào ngày 21 tháng 5, mục đích là để thu thập dữ liệu từ một thiết bị cảm biến của châu Âu được thiết kế cho cuộc hẹn trong tương lai giữa Tàu vận tải tự hành (ATV) của ESA với Trạm vũ trụ Quốc tế. Chuyến bay Increment của Foale vẫn diễn ra khá bình thường cho đến ngày 25 tháng 6, khi một tàu tiếp tế va chạm với các mảng quang điện trên mô-đun Spektr trong cuộc thử nghiệm thứ hai của hệ thống ghép nối thủ công TORU trên tàu Tiến bộ. Lớp vỏ bên ngoài của mô-đun bị va đập và chọc thủng khiến Trạm Hòa Bình mất áp suất. Đây là lần giảm áp suất trên quỹ đạo đầu tiên trong lịch sử các chuyến bay vũ trụ. Phi hành đoàn đã nhanh chóng cắt dây cáp dẫn đến mô-đun và đóng cửa sập của Spektr để tránh việc phải rời trạm trên "xuồng cứu sinh" Soyuz. Những nỗ lực của họ đã giúp ổn định áp suất không khí trên trạm, trong khi áp suất ở Spektr, nơi chứa nhiều thí nghiệm và đồ dùng cá nhân của Foale, bị giảm xuống mức chân không. May mắn là thực phẩm, nước uống và vật dụng quan trọng đã được cất trữ an toàn trong các mô-đun khác. Ngoài ra, nỗ lực cứu vớt và lập lại kế hoạch của Foale cũng như cộng đồng khoa học đã giúp giảm thiểu việc mất mát dữ liệu và khả năng thực hiện nghiên cứu của trạm vũ trụ. Trong nỗ lực khôi phục một số hệ thống và nguồn điện bị mất sau khi cô lập Spektr cũng như cố gắng xác định vị trí rò rỉ, chỉ huy mới của Hòa Bình Anatoly Yakovlevich Solovyev và kỹ sư bay Pavel Vladimirovich Vinogradov đã cùng thực hiện một hoạt động trục vớt. Họ bước vào mô-đun rỗng trong một chuyến đi bộ ngoài không gian được gọi là "IVA", kiểm tra tình trạng phần cứng và chạy dây cáp qua một cửa sập đặc biệt từ các hệ thống của Spektr đến phần còn lại của trạm. Sau những cuộc khảo sát đầu tiên này, Foale và Solovyev đã tiến hành chuyến EVA kéo dài 6 giờ trên bề mặt Spektr để kiểm tra hỏng hóc của mô-đun. Qua những sự cố trên, Quốc hội Hoa Kỳ và NASA đã cân nhắc việc từ bỏ dự án do lo ngại cho sự an toàn của các phi hành gia, nhưng Trưởng quản lý NASA Daniel Goldin vẫn quyết định tiếp tục chương trình. Chuyến bay tiếp theo đến Hòa Bình, với tên gọi STS-86, đã đưa phi hành gia Increment David Wolf lên trạm vũ trụ. STS-86 là sứ mệnh ghép nối Shuttle–Mir thứ bảy của dự án, và cũng là lần ghép nối cuối cùng của tàu con thoi với Hòa Bình trong năm 1997. Khi đang bay trên Atlantis, các phi hành gia Titov và Parazynski đã tiến hành hoạt động chung bên ngoài tàu vũ trụ đầu tiên giữa Mỹ và Nga trong một sứ mệnh tàu con thoi, và hoạt động đầu tiên mà một người Nga mặc bộ đồ du hành của Mỹ. Trong chuyến đi bộ ngoài không gian kéo dài 5 giờ, bộ đôi này đã gắn một Solar Array Cap nặng vào Docking Module để các thành viên phi đội khác có thể bịt ​​kín chỗ rò rỉ trên thân mô-đun Spektr trong tương lai. Nhiệm vụ đã đưa Foale trở lại Trái Đất cùng với các mẫu vật, phần cứng và máy tạo oxy Elektron cũ, đồng thời thả Wolf xuống trạm để sẵn sàng cho chuyến bay Increment kéo dài 128 ngày của ông. Theo kế hoạch ban đầu, Wolf sẽ là phi hành gia người Mỹ cuối cùng trên Trạm Hòa Bình, nhưng sau đó ông lại được chọn để đảm nhiệm chuyến bay Increment tiếp theo thay cho phi hành gia Wendy Lawrence. Lawrence được coi là không đủ điều kiện để bay do sự thay đổi trong các yêu cầu của Nga sau vụ va chạm với tàu vận tải Tiến bộ. Những quy định mới yêu cầu tất cả thành viên phi hành đoàn của Hòa Bình phải được đào tạo và sẵn sàng cho các chuyến đi bộ ngoài không gian, nhưng bộ đồ du hành vũ trụ của Nga đã không được chuẩn bị kịp thời cho Lawrence trước thời gian phóng. Phase One kết thúc (1998) Năm cuối cùng của Phase One bắt đầu với phi vụ phóng tàu con thoi Endeavour trong nhiệm vụ STS-89. Sứ mệnh này đã đưa nhà du hành vũ trụ người Nga Salizhan Shakirovich Sharipov lên Hòa Bình và thay thế David Wolf bằng Andy Thomas sau chuyến bay kéo dài 119 ngày của ông. Trong chuyến Increment cuối cùng của chương trình, Thomas đã thực hiện 27 nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, khoa học Trái Đất, khoa học đời sống con người, nghiên cứu vi trọng lực, và giảm thiểu rủi ro cho ISS. Thời gian ông lưu lại trên Hòa Bình được coi là suôn sẻ nhất trong toàn bộ chương trình Phase One, nổi bật với "Letters from the Outpost" (tạm dịch: "Những bức thư từ Tiền đồn") do Thomas viết mỗi tuần cho người thân và bạn bè ở Trái Đất. Lần Increment này cũng đã vượt qua hai cột mốc quan trọng về thời lượng của chuyến bay vũ trụ đối với phi hành gia Mỹ — một là 815 ngày liên tiếp trong không gian kể từ khi Shannon Lucid được phóng lên trong sứ mệnh STS-76 vào tháng 3 năm 1996, và hai là 907 ngày lưu lại trên Hòa Bình kể từ chuyến đi của Norman Thagard tới trạm vũ trụ này vào tháng 3 năm 1995. Thomas được đưa trở lại Trái Đất trong nhiệm vụ Shuttle–Mir cuối cùng là STS-91. Sứ mệnh này đã khép lại Phase One, với việc các phi hành đoàn EO-25 và STS-91 vận chuyển nước đến Hòa Bình và trao đổi gần hàng hóa thí nghiệm cũng như đồ tiếp tế giữa hai tàu vũ trụ. Những thí nghiệm dài hạn của Mỹ trên Trạm Hòa Bình cũng được chuyển sang Discovery. Các cửa sập đóng lại để tháo dỡ lúc 9:07 EDT ngày 8 tháng 6, và tàu vũ trụ đã tách ra lúc 12:01 EDT chiều hôm đó. Phase Two và Phase Three: ISS (1998–nay) Chương trình Phase One kết thúc với cú hạ cánh của tàu con thoi Discovery vào ngày 12 tháng 6 năm 1998. Các kỹ thuật và thiết bị được phát triển trong chương trình đã hỗ trợ hoàn thiện Phase Two, hay quá trình lắp ráp ban đầu của Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS). Việc mô-đun phòng thí nghiệm Destiny cập bến vào năm 2001 đã đánh dấu sự kết thúc của Phase Two và bắt đầu chuyển sang Phase Three, giai đoạn trang bị cuối cùng cho trạm. Chương trình này cũng đã được hoàn thành vào năm 2012. Năm 2015, việc cấu hình lại phân đoạn của Hoa Kỳ đã hoàn tất, cho phép các cổng ghép nối của nó có thể tiếp nhận những phương tiện thương mại có người lái do NASA tài trợ, dự kiến ​​sẽ bắt đầu ghé thăm ISS vào năm 2018. Tính đến tháng 6 năm 2015, thể tích được điều áp của ISS là , tổng chiều dài các mô-đun điều áp là , cộng với một cấu trúc giàn lớn trải dài khiến trạm này trở thành tàu vũ trụ lớn nhất từ ​​​​trước đến nay từng được lắp ráp. ISS khi hoàn thành bao gồm năm phòng thí nghiệm và có thể hỗ trợ sáu thành viên phi hành đoàn. Với hơn thể tích có thể ở được và khối lượng , Trạm vũ trụ Quốc tế hoàn chỉnh có độ lớn gần gấp đôi tổng kích thước khi tàu con thoi ghép nối với Hòa Bình. Phase Two và Phase Three được tiến hành nhằm mục đích tiếp tục sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học về không gian và không trọng lực, đặc biệt là về các chuyến bay vũ trụ thời gian dài. Mùa xuân năm 2015, Roscosmos, NASA và Cơ quan Vũ trụ Canada (CSA) đã đồng ý gia hạn sứ mệnh của ISS từ năm 2020 lên năm 2024. Năm 2018, thời hạn của nhiệm vụ được kéo dài đến năm 2030. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin đáng kể cho những chuyến thám hiểm dài ngày tới Mặt Trăng và các chuyến bay tới Sao Hỏa. Sau khi Hòa Bình rời khỏi quỹ đạo một cách có chủ ý vào ngày 23 tháng 3 năm 2001, ISS đã trở thành trạm không gian duy nhất còn hoạt động trên quỹ đạo Trái Đất. Nó vẫn giữ được vị thế độc nhất đó cho đến phi vụ phóng phòng thí nghiệm vũ trụ Thiên Cung 1 của Trung Quốc vào ngày 29 tháng 9 năm 2011. Di sản của Hòa Bình vẫn còn ở đấy, trên ISS. Dự án này đã tập hợp năm cơ quan vũ trụ lại với nhau vì mục đích khám phá và cho phép các cơ quan vũ trụ đó chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo vào không gian, tới Mặt Trăng, Sao Hỏa và hơn thế nữa. Danh sách đầy đủ các sứ mệnh Shuttle–Mir Những dòng in đậm là tên của các phi hành gia tham gia chuyến bay Increment. Tranh cãi Sự an toàn và thành quả khoa học Những chỉ trích đối với chương trình chủ yếu liên quan đến tính an toàn của Trạm Hòa Bình cũ kỹ, đặc biệt là sau vụ hỏa hoạn và va chạm với tàu tiếp tế Tiến bộ vào năm 1997. Theo nhiều nguồn tin, đám cháy xảy ra là do sự cố của máy tạo oxy nhiên liệu rắn (SFOG) dự phòng. Thời gian cháy nằm trong khoảng từ 90 giây đến 14 phút, và đã tạo ra một lượng lớn khói độc tràn ngập khắp trạm trong 45 phút. Vì sự an toàn, phi hành đoàn buộc phải đeo mặt nạ phòng độc, nhưng một số chiếc được đeo lúc đầu đã bị hỏng. Bình chữa cháy gắn trên tường của các mô-đun thì không thể di chuyển được. Vụ hỏa hoạn xảy ra trong quá trình luân chuyển phi hành đoàn, do vậy đã có đến sáu người trên trạm thay vì chỉ ba người như thường lệ. Lối đi dẫn đến một trong những xuồng cứu sinh Soyuz đang cập bến còn bị chặn lại, khiến một nửa phi hành đoàn có nguy cơ không thể chạy thoát. Một sự cố tương tự cũng đã xảy ra trong chuyến thám hiểm trên Hòa Bình trước đó, mặc dù lúc ấy SFOG chỉ bị cháy trong vài giây. Các vụ va chạm và suýt va chạm đã đặt ra nhiều hơn nữa những vấn đề về sự an toàn. Cả hai đều xảy ra do lỗi của cùng một thiết bị là hệ thống ghép nối thủ công TORU, vốn đang được thử nghiệm vào thời điểm đó. Những cuộc kiểm tra được thực hiện nhằm đánh giá hiệu suất của việc ghép nối đường dài, giúp người Nga với ngân sách thiếu thốn có thể loại bỏ hệ thống ghép nối tự động đắt tiền Kurs khỏi các tàu Tiến bộ. Sau vụ va chạm, NASA và Cơ quan Vũ trụ Nga đã thúc giục nhiều hội đồng an toàn xác định nguyên nhân vụ tai nạn. Khi cuộc điều tra tiến triển, kết quả của hai cơ quan không gian bắt đầu đi theo những hướng khác nhau. Kết luận của NASA xác định nguyên nhân là do hệ thống ghép nối TORU vì nó yêu cầu phi hành gia phụ trách cập bến Tiến bộ mà không có sự trợ giúp của bất kỳ loại phép đo từ xa hoặc hướng dẫn nào. Tuy nhiên, kết quả của Cơ quan Vũ trụ Nga đổ lỗi vụ tai nạn là do phi hành đoàn, đồng thời cáo buộc phi hành gia của họ đã tính sai khoảng cách giữa tàu Tiến bộ và trạm vũ trụ. Kết luận này từ Roscosmos vấp phải chỉ trích nặng nề, ngay cả bởi chính phi hành gia của họ là Tsibliyev, người bị họ đổ lỗi. Trong cuộc họp báo đầu tiên sau khi trở về Trái Đất, nhà du hành vũ trụ đã bày tỏ sự tức giận và không đồng tình bằng cách tuyên bố: "Ở Nga có một truyền thống lâu đời là tìm kiếm vật tế thần." Các vụ tai nạn cũng làm tăng thêm sự chỉ trích ngày càng lớn về độ tin cậy của trạm không gian lâu năm này. Phi hành gia Blaine Hammond tuyên bố rằng những lo ngại về an toàn của ông đối với Hòa Bình đã bị các quan chức NASA phớt lờ, và hồ sơ về những cuộc họp an toàn "đã biến mất khỏi một căn hầm bị khóa". Trạm Hòa Bình ban đầu được thiết kế để hoạt động trong 5 năm, nhưng cuối cùng đã bay được gấp ba lần khoảng thời gian đó. Trong Phase One cũng như các giai đoạn về sau, trạm xuất hiện nhiều dấu hiệu cũ kỹ—máy tính liên tục gặp sự cố, mất điện, nhào lộn không kiểm soát trong không gian và đường ống rò rỉ là những mối lo ngại thường trực đối với các phi hành đoàn. Nhiều sự cố xảy ra trong hệ thống tạo oxy Elektron của Hòa Bình cũng là một mối lo ngại. Những sự cố này khiến các đội bay ngày càng phụ thuộc vào hệ thống SFOG đã gây ra vụ cháy năm 1997. Các hệ thống SFOG tiếp tục là một rắc rối trên ISS. Một vấn đề gây tranh cãi khác là thành quả khoa học thu được thực tế từ chương trình, nhất là sau tổn thất của mô-đun Spektr. Các phi hành gia, các nhà quản lý và giới báo chí đều phàn nàn rằng lợi ích của chương trình này đã bị đè bẹp bởi những rủi ro liên quan, đặc biệt khi xét đến thực tế là hầu hết các thí nghiệm khoa học của Hoa Kỳ đều được chứa trong mô-đun đã bị thủng ấy. Do đó, một lượng lớn nghiên cứu của Mỹ không thể tiếp cận được, làm giảm khả năng thực hiện khoa học. Các vấn đề về tính an toàn khiến NASA phải xem xét lại tương lai của chương trình vào nhiều thời điểm. Cơ quan này cuối cùng vẫn quyết định tiếp tục dự án và đã bị nhiều phương tiện báo chí chỉ trích về lựa chọn đó. Quan điểm Quan điểm của chương trình không gian Nga và NASA đối với Phase One cũng đồng thời là mối lo ngại cho các phi hành gia có liên quan. Do những vấn đề tài chính của Nga, nhiều nhân viên tại TsUP cảm thấy rằng phần cứng sứ mệnh và việc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của Hòa Bình còn quan trọng hơn mạng sống của các phi hành gia trên trạm. Do đó, chương trình này được vận hành rất khác so với các chương trình của Mỹ: phi hành gia được lên kế hoạch chi tiết cho các ngày của họ đến từng phút, những hành động (chẳng hạn như ghép nối) vốn được thực hiện thủ công bởi các phi công tàu con thoi đều được tiến hành tự động, và phi hành gia sẽ bị trừ lương nếu họ mắc bất kỳ sai sót nào trong chuyến bay. Người Mỹ đã học được trên Skylab và các nhiệm vụ không gian trước đó rằng mức độ kiểm soát này không hiệu quả và từ đó sẽ khiến các kế hoạch sứ mệnh trở nên kém nhất quán hơn. Tuy nhiên, phía Nga vẫn không thay đổi, và nhiều người nhận thấy điều này đã làm mất đi đáng kể thời gian làm việc. Sau hai vụ tai nạn vào năm 1997, phi hành gia Jerry Linenger cảm nhận chính quyền Nga đã cố gắng che đậy để hạ thấp tầm quan trọng của sự cố vì lo sợ người Mỹ sẽ rút khỏi mối quan hệ đối tác. Phần lớn "sự che đậy" chính là ấn tượng bề ngoài rằng các phi hành gia Mỹ thực tế không phải "đối tác" trên trạm mà thay vào đó chỉ là "khách mời". Nhân viên NASA đã không hay biết gì về vụ cháy và vụ va chạm trong vài giờ đồng hồ, và họ nhận thức rằng bản thân không được tham gia vào quá trình đưa ra quyết định. NASA bắt đầu can dự nhiều hơn sau khi những người điều khiển sứ mệnh của Nga có ý định đổ lỗi hoàn toàn cho Vasily Vasiliyevich Tsibliyev về vụ tai nạn. Chỉ sau khi có áp lực đáng kể từ cơ quan Mỹ, thái độ này mới được thay đổi. Vào nhiều thời điểm khác nhau trong chương trình, các nhà quản lý và nhân sự của NASA cảm thấy họ đang bị hạn chế về tài nguyên cũng như nhân lực, đặc biệt là khi Phase Two được chuẩn bị và có một giai đoạn khó khăn trong việc xác định tương lai với cơ quan quản lý NASA. Một khía cạnh cụ thể gây nên sự lục đục chính là việc phân công phi hành đoàn đi làm nhiệm vụ. Nhiều phi hành gia cho rằng phương pháp tuyển chọn đã ngăn cản những người có kỹ năng hàng đầu đảm nhiệm vai trò phù hợp nhất với họ. Tài chính Kể từ khi Liên Xô tan rã vài năm trước đó, nền kinh tế Nga dần suy sụp dẫn đến ngân sách dành cho thám hiểm không gian giảm khoảng 80%. Trước và sau Phase One, phần lớn nguồn tài chính không gian của Nga đến từ những chuyến bay của các phi hành gia châu Âu và nhiều quốc gia khác, trong đó một đài truyền hình Nhật Bản đã trả 9,5 triệu đô la để đưa phóng viên của họ là Akiyama Toyohiro lên Trạm Hòa Bình. Khi bắt đầu Phase One, các phi hành gia thường xuyên nhận thấy thời lượng nhiệm vụ của họ được kéo dài ra nhằm tiết kiệm tiền mua bệ phóng, sáu chuyến bay mỗi năm của tàu Tiến bộ đã bị giảm xuống còn ba chuyến, và có một khả năng dễ nhận thấy là Hòa Bình được bán với giá khoảng 500 triệu đô la Mỹ. Những người chỉ trích cho rằng hợp đồng trị giá 325 triệu đô la Mỹ mà NASA ký với Nga là điều duy nhất giúp chương trình không gian của nước này tồn tại, và chỉ có tàu con thoi mới giữ được Trạm Hòa Bình ở trên quỹ đạo. NASA cũng phải trả những khoản phí khổng lồ cho sách hướng dẫn đào tạo và thiết bị được sử dụng trong quá trình huấn luyện phi hành gia tại Star City. Vấn đề nảy sinh khi chương trình Nightline của đài ABC tiết lộ rằng có một khả năng rõ ràng là chính quyền Nga đã biển thủ số tiền của Mỹ để xây dựng một dãy nhà mới dành cho phi hành gia ở Moskva, hoặc nếu không thì các dự án xây dựng trên đã được tài trợ bởi xã hội đen Nga. Trưởng quản lý NASA Goldin được mời tham gia chương trình Nightline để bào chữa cho các ngôi nhà, nhưng ông đã từ chối đưa ra bình luận. Một trích dẫn từ Văn phòng đối ngoại của NASA nói rằng "Những gì Nga làm bằng tiền của họ là việc của họ." Xem thêm Danh sách tàu vũ trụ nặng nhất Skylab 4 Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài History of Shuttle–Mir – Lịch sử chương trình Shuttle–Mir từ NASA . Shuttle–Mir's Lessons for the International Space Station James Oberg, Contributing Editor, SPECTRUM magazine June 1998, pp. 28–37 – Những bài học từ chương trình Shuttle–Mir dành cho Trạm vũ trụ Quốc tế . Trạm vũ trụ Hòa Bình Sứ mệnh tàu con thoi Chương trình NASA Quan hệ Hoa Kỳ-Nga
19857737
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%C4%A9a%20v%E1%BB%A5%20qu%C3%A2n%20s%E1%BB%B1%20t%E1%BA%A1i%20Nga
Nghĩa vụ quân sự tại Nga
Chế độ quân dịch bắt buộc tại Nga (, dịch là "nghĩa vụ quân sự toàn dân", "nghĩa vụ quân sự phổ cập" hoặc "bổn phận chấp hành nghĩa vụ quân sự") là một khoảng thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự 12 tháng, có tính chất bắt buộc đối với tất cả các nam công dân trong độ tuổi từ 18 đến 30, với một số trường hợp ngoại lệ. Trốn tránh nghĩa vụ bị xem là trọng tội chiếu theo bộ luật hình sự và bị phạt tù cao nhất tới 18 tháng. Lính nghĩa vụ nói chung là bị cấm chỉ việc đào ngũ. Xem thêm Dedovshchina (ma cũ bắt nạt ma mới trong quân đội) Tham khảo Đọc thêm "Russian Military Complains About 'Low Quality' of Recruits as Spring Draft Begins." Associated Press. April 1, 2005. (Via Levis-Nexis). Liên kết ngoài Conscription through detention in Russia's armed forces Only eleven percent of Russian men enter mandatory military service. https://www.ipernity.com/doc/57114/5919363 The Economic Cost of Soviet Military Manpower Requirements, RAND Corporation (1989) Conscription and Reform in the Russian Army (2004) Quân sự Nga Xã hội Nga Nga
19857738
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rob%20Halford
Rob Halford
Robert John Arthur Halford (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1951) là một ca sĩ và nhạc sĩ sáng tác bài hát người Anh. Ông nổi danh nhất với vai trò ca sĩ chính của Judas Priest - nhóm nhạc được thành lập vào năm 1969 và gặt hái một số giải thưởng như giải Grammy cho Trình diễn metal xuất sắc nhất. Ông gây chú ý nhờ lối hát nội lực và hơi hướng opera với âm vực rộng, cùng hình ảnh đồ da-gắn-đinh, tất cả đều trở nên trứ danh trong heavy metal. Ông còn tham gia một số dự án bên lề như Fight, Two và Halford. Halford thường được xem là một trong những nam giọng ca chính và ca sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại. AllMusic nhận xét Halford, "Có rất ít giọng ca trong lịch sử heavy metal sở hữu lối hát giàu ảnh hưởng và dễ nhận diện ngay tức thì như vậy... có thể chuyển đổi trơn tru giữa giọng growl khàn đặc và giọng falsetto gây chói tai." Ông được độc giả của Planet Rock xếp ở vị trí số 33 trong danh sách những giọng ca hay nhất trong nhạc rock vào năm 2009. Ông còn được người hâm mộ dành tặng biệt hiệu "Metal God". Ông được ghi danh vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll với tư cách thành viên của Judas Priest vào năm 2022, thông qua giải cho Thành tựu âm nhạc xuất sắc. Sự nghiệp Những năm đầu đời Robert John Arthur Halford sinh ra vào ngày 25 tháng 8 năm 1951 ở Sutton Coldfield. Ông lớn lên ở vùng Walsall gần đó - ông được nuôi dạy tại khu nhà Beechdale - cũng là quê nhà của Noddy Holder. Judas Priest Halford được người chị gái Sue giới thiệu cho tay bass và người đồng sáng lập Judas Priest là Ian Hill, do lúc ấy Sue và Hill đang hẹn hò. Halford (bấy giờ làm quản lý một cửa hiệu quần áo nam giới) gia nhập ban nhạc và làm ca sĩ, mang theo cả tay trống John Hinch từ ban nhạc cũ Hiroshima của anh. Halford và Hinch thể hiện show đầu tiên với Judas Priest vào tháng 5 năm 1973 tại Townhouse ở Wellington. Show được thu hình và một phần của chương trình được đưa vào sản phẩm tuyển tập Downer-Rock Asylum (2009) trên hãng đĩa Audio Archives. Năm 1974, ông lần đầu thu âm trong album đầu tiên Rocka Rolla của ban nhạc. Ông tiếp tục hát chính ở Judas Priest suốt hai thập niên 1970 và 1980. Năm 1990, Halford xuất hiện với toàn bộ hình xăm mới, gồm cây thánh giá Judas Priest bị uốn nằm ở tay phải, cũng như một số ít hình xăm ở vai. Ông còn bắt đầu tự cạo trọc đầu. Ngày cuối của tour quảng bá Painkiller vào tháng 8 năm 1991 tại show ở Toronto, Halford cưỡi chiếc xe mô-tô lớn Harley-Davidson phóng lên sân khấu, diện đồ của dân đi mô tô. Bộ nâng sân khấu gặp trục trặc và ông va phải dàn trống đang nâng lên một nửa, nên ngã khỏi xe và vỡ mũi. Ông bất tỉnh trong thời gian ngắn trong lúc mà ban nhạc đang trình bày bài hát đầu tiên. Sau khi lấy lại nhận thức, Halford trở lại và hoàn thành show. Halford đã muốn theo đuổi dự án solo và nhận được lời chúc phúc từ các đồng đội trong ban nhạc. Một giám đốc hãng thu âm nhắc Halford rằng về mặt kĩ thuật ông phải 'từ chức' khỏi Judas Priest để đạt được mục tiêu, và ông viết phát ngôn có nhắc đến sự quan tâm đến một dự án solo. Bức thư bị lộ và bị biến tướng thành ghi ông bỏ ban nhạc. Do cá nhân bị thử thách trước xung đột, ông không thể nêu rõ chuyện đã xảy ra và hơn mười sau thì ông tái liên hệ rồi tái gia nhập ban nhạc. Fight Ngày sau khi Halford rời đi, ông lập ban nhạc Fight với tay trống Scott Travis của Judas Priest, tay bass Jack "Jay Jay" Brown cùng hay cây guitar Brian Tilse và Russ Parrish. Album đầu tiên War of Words được phát hành vào năm 1993, kế đến là sản phẩm EP nửa thu trực tiếp, nửa remix là Mutations vào năm 1994. Một tour được khởi động để quảng bá album vào năm 1994. Album thứ hai A Small Deadly Space được phát hành vào năm 1995, với tour vận động cho album ấy cùng diễn ra. Trong khi War of Words là đĩa nhạc metal thuần túy, A Small Deadly Space lại mang âm thanh gần với grunge hơn, làm tác phẩm trở nên kém hấp dẫn hơn trong mắt người hâm mộ trước đó đã kết War of Words. Khi chuẩn bị làm album thứ ba, họ tan rã, qua đó chấm dứt vụ kinh doanh với hãng đĩa Epic Records. Một dịp tái hợp ngắn với một nửa thành viên sáng lập tham dự được tổ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 1997 với một tiết mục duy nhất, trước khi tan rã lần nữa. Ở buổi phỏng vấn vào năm 2015, Halford dự tính tái lập Fight. 2wo Năm 1997, Halford hợp tác với nghệ sĩ guitar John Lowery để lập ban nhạc chịu ảnh hưởng của industrial có tên 2wo. Họ phát hành album duy nhất Voyeurs vào năm 1998, tác phẩm do Trent Reznor sản xuất và phát hành trên hãng đĩa Nothing Records của chính anh. Halford Năm 1999, Halford trở lại với nguồn gốc nhạc metal và lập một ban nhạc solo. Album Resurrection được phát hành năm 2000 và nhận được lời khen từ giới phê bình. Ban nhạc đã khởi động một tour với Iron Maiden và Queensrÿche để quảng bá album. Một album nhạc sống có nhan đề Live Insurrrection được phát hành vào năm 2001. Kế đến là album thứ hai Crucible ra mắt năm 2002. Năm 2010, Halford phát hành đĩa DVD nhạc sống có nhan đề Live in Anaheim và album phòng thu thứ tư Halford IV: Made of Metal. Tái hợp với Judas Priest Khả năng Halford tái hợp với Judas Priest đã được đồn đoán từ nhiều năm trước khi mà anh không còn góp mặt trong đội hình, ít nhất kể từ khi ra mắt album Resurrection - một vài nhà phê bình còn cho rằng album đó nghe giống Judas Priest hơn cả chính album gần nhất của họ lúc ấy là Jugulator (1997). Halford lúc đầu loại trừ khả năng đó, song sau tái cân nhắc bằng phát biểu vào năm 2002: "Bản năng mách bảo tôi rằng vào lúc nào đó chuyện này [tái hợp] sẽ xảy ra". Tháng 7 năm 2003, Halford trở lại Judas Priest và khởi động một tour vào năm 2004 để ăn mừng lần tái ngộ này. Ban nhạc phát hành đĩa Angel of Retribution vào năm 2005. Nhóm còn tổ chức tour toàn thế giới và đánh dấu 30 năm thành lập. Năm 2008, Nostradamus được phát hành. Năm 2011, Judas Priest khởi động tour diễn toàn cầu được xem là lần cuối họ hoạt động dưới danh nghĩa tập thể, có tên gọi "Epitaph" tour. Sau khi thông báo tour này, Halford cho biết ông sẽ tiếp tục hoạt động với ban nhạc solo. Mặc cho đã thông báo "tour cuối cùng" vào năm 2011, Halford và Judas Priest (trừ K. K. Downing đã rời nhóm trước Epitaph tour) thu âm thêm album nữa là Redeemer of Souls, được phát hành vào năm 2014, kế đến là một tour hòa nhạc quảng bá album. Năm 2017, Judas Priest bắt đầu làm thêm album phòng thu nữa với Halford. Album Firepower được phát hành vào ngày 9 tháng 3 năm 2018. Trình diễn trực tiếp Halford đảm nhận vị trí giọng ca cho Black Sabbath trong ba show. Ông thay thế Ronnie James Dio trong hai đêm diễn vào tháng 11 năm 1992, khi Dio chọn không diễn mở màn show cho Ozzy Osbourne. Halford cũng khỏa lấp vị trí của Osbourne ở Black Sabbath vào ngày 26 tháng 8 năm 2004 (một ngày trước dịp sinh nhật tuổi 53 của Halford) tại show của Ozzfest ở Camden, New Jersey, do Osbourne không thể biểu diễn vì bị viêm phê quản. Halford lên sân khấu diễn cùng Sum 41 vào năm 2001 ở buổi hòa nhạc truyền hình kỷ niệm 20 năm thành lập MTV với tay trống Tommy Lee; họ trình bày bài "You've Got Another Thing Comin'" để kết thúc phần medley. Halford lên sân khấu diễn cùng Metallica ba lần khi họ thể hiện ca khúc "Rapid Fire"; năm 1994 vào ngày cuối của Shit Hits the Sheds Tour, năm 2011 tại The Fillmore nhân dịp kỷ 30 năm thành lập ban nhạc và vào năm 2013 tại lễ trao giải thường niên Revolver Golden Gods lần thứ năm ở Los Angeles. Halford lên sân khấu cùng Pantera hai lần. Tiết mục đầu tiên vào năm 1992 khi ông hát các bài "Metal Gods" và "Grinder", và một lần nữa vào năm 1997 khi ông hát bài "Grinder". Halford lên sân khấu cùng ban nhạc queercore Pansy Division vào tháng 7 năm 1997 để thể hiện ca khúc "Breaking the Law". Halford lên sân khấu cùng Babymetal vào ngày 18 tháng 7 năm 2016 tại lễ trao giải Alternative Press Music Awards ở Cleveland và thể hiện bản medley của "Painkiller" và "Breaking the Law". Hoạt động khác Halford xuất hiện trong bộ phim điện ảnh Spun (2002), trong phim ông thủ vai trợ lý bán hàng tại một cửa hàng sex. Năm 2006, Halford chia tay Sanctuary Records và lập công ty Metal God Entertainment để sản xuất và cấp phép cho bất kỳ sản phẩm nào trong tương lai. Tất cả sản phẩm của Fight và Halford được phát hành dưới định dạng tái hậu kỳ, gồm các đĩa DVD từ cả hai ban nhạc. Halford cung cấp giọng voice-over cho các nhân vật Tướng Lionwhyte và thủ lĩnh của Fire Barons trong trò chơi video Brütal Legend (2009). Ngoại hình và tính cách của Baron dựa trên Halford. Halford phát triển dòng quần áo Metal God Apparel với dự kiến phát triển doanh số bán lẻ qua năm 2010. Cùng năm đó, Halford có vai khách mời ngắn cho quảng cáo của Virgin Mobile, ông vào vai một linh mục. Năm 2019, Halford thực hiện một cuốn tự truyện. Cuốn tự truyện có nhan đề Confess, lúc đầu dự kiến xuất bản vào tháng 10 năm 2020, song sửa ngày ra mắt chính thức là 29 tháng 9 năm 2020 thông qua Hachette Books. Tháng 8 năm 2020, Halford đính chính rằng ông đã hoàn thành bản sách nói của ấn phẩm, và sẽ mang sách bày bán cùng lúc với bản sách vật lý. Halford từng tự hóa thân chính mình khi đại diện cho lương tâm của nhân vật Kevin trong bộ phim truyền hình chính-hài kịch Metal Lords (2022). Đời tư Sở thích Halford đã phân chia thời gian trú tại tư gia ở Hoa Kỳ lẫn tư gia ở thị trấn quê hương Walsall. Halford sở hữu một chiếc xe Aston Martin DBS, một Chevrolet Corvette và một Mercury Cougar ở thập niên 1970. Đến năm 38 tuổi ông mới lấy được bằng lái. Năm 2010, ông cho biết chiếc xe chính của mình là Cadillac DTS đời 2006. Tháng 5 năm 2021, Halford được Thống đốc Andy Beshear phong tặng danh hiệu Kentucky Colonel. Xu hướng tình dục Halford đã công khai mình là gay. Năm 1998, ông công khai mình đồng tính trên MTV. Ông rớt nước mắt chia sẻ: "Đây là khoảnh khắc kỳ diệu khi bạn bước khỏi tủ quần áo. Giờ đây tôi đã làm được và giải phóng bản thân mình. Cảm giác của tôi thật tuyệt vời khi cuối cùng đã buông bỏ được và đưa ra thông báo này—đặc biệt với The Advocate, vì tạp chí này đã an ủi tôi rất nhiều trong những năm qua. Thật sự đây là ngày tuyệt vời đối với tôi." Sau đó Halford giải thích rằng ông không có chuẩn bị kế hoạch hay mục đích gì khi đến làm buổi phỏng vấn với MTV. Ông chủ yếu nói và quảng bá album Voyeurs mà mình làm với nghệ sĩ guitar John 5, khi được nhà sản xuất chương trình hỏi thì ông tiết lộ xu hướng tính dục của mình. Ông xem đây là "một bước tiến lớn." Lúc mà Halford tiết lộ xu hướng tính dục của mình, ông lo ngại vì thế mà mình sẽ đánh mất người hâm mộ. Ông giải thích mình chẳng thể trở lại một số nơi nhất định trên thế giới vì sợ bị ném đá. Ông miêu tả thập niên 1970 và 1980 là "cực kỳ khó khăn", nhưng chẳng hề câu nệ về phong cách âm nhạc. Halford bông đùa rằng chẳng thể thay thế ông bằng một ông trai thẳng, nhắc đến cố giọng ca của Queen là Freddie Mercury: "nếu Freddie mà không phải là gay, thì Queen đã là một ban nhạc hoàn toàn khác rồi. Nhưng đấy là phần thật sự quan trọng trong đời tôi, mà lúc nào đó tôi phải viết ra giấy mới được." Lối hát và ảnh hưởng Halford sở hữu chất giọng nội lực với âm vực rộng, nổi bật là những tiếng hét cao độ cao và vibrato mạnh mẽ. Cùng với Ronnie James Dio và Bruce Dickinson, Halford nằm trong số những người tiên phong trong lối hát hơi hướng opera (về sau được các giọng ca power metal áp dụng) và thường xuyên có mặt ở gần tốp đầu danh sách những giọng ca nam và ca sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại. Năm 2009, độc giả của Planet Rock bình chọn ông ở vị trí số 33 trong danh sách những giọng ca hay nhất trong nhạc rock. Năm 2023, Rolling Stone xếp Halford ở vị trí số 129 trong danh sách 200 ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Người hâm mộ đã đặc biệt dành tặng ông biệt hiệu "Metal God". Ngoài ra ông được xem là biểu tượng gay đầu tiên của nhạc heavy metal. Halford tự miêu tả mình là "người hâm mộ lớn của Queen" kể từ khi họ thành lập và ông đi xem những show đầu tiên của họ. Ông ví Freddie Mercury (cố ca sĩ chính của Queen) là "thần tượng đỉnh cao" trong lòng mình và bày tỏ sự hối tiếc vì chưa bao giờ quen biết Freddie. Trong vai trò hát, Halford chịu ảnh hưởng của Little Richard, Elvis Presley, Janis Joplin và Robert Plant. Về mặt âm nhạc, ông cũng chịu ảnh hưởng từ Jimi Hendrix, the Beatles, Cream, David Bowie, King Crimson, the Rolling Stones, John Mayall và Alice Cooper. Danh sách đĩa nhạc Judas Priest Rocka Rolla (1974) Sad Wings of Destiny (1976) Sin After Sin (1977) Stained Class (1978) Killing Machine (1978) Unleashed in the East (1979) British Steel (1980) Point of Entry (1981) Screaming for Vengeance (1982) Defenders of the Faith (1984) Turbo (1986) Priest...Live! (1987) Ram It Down (1988) Painkiller (1990) Angel of Retribution (2005) Nostradamus (2008) A Touch of Evil: Live (2009) Redeemer of Souls (2014) Battle Cry (2016) Firepower (2018) Invincible Shield (2024) Fight K5 – The War of Words Demos (1992) (phát hành năm 2007) War of Words (1993) Mutations (1994) A Small Deadly Space (1995) 2wo Voyeurs (1998) Halford Resurrection (2000) Live Insurrection (2001) Crucible (2002) Metal God Essentials, Vol. 1 (2007) Live in Anaheim (2010) Halford III: Winter Songs (2009) Halford IV: Made of Metal (2010) Sản phẩm khác The Complete Albums Collection (2017) Rob Halford với bạn bè và gia đình Celestial (2019) Chú thích Liên kết ngoài Rob Halford interview @ Metalpaths.com 2010 Rob Halford Interview @ Chaos Control Rob Halford Interview on Music Business Radio Ca sĩ rock Anh Ca sĩ tự sáng tác người Anh Nhân vật còn sống Sinh năm 1951 Nhạc sĩ sáng tác bài hát gay Ca sĩ gay Nhạc sĩ từ Walsall Nhạc sĩ sáng tác bài hát LGBT người Anh Ca sĩ LGBT người Anh Thành viên của Judas Priest Ca sĩ heavy metal người Anh Nhạc sĩ gay người Anh Nam ca sĩ người Anh thế kỷ 20 Nam ca sĩ người Anh thế kỷ 21
19857758
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Gudgeon%20%28SS-211%29
USS Gudgeon (SS-211)
USS Gudgeon (SS-211) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài cá chép, cá bống đen và cá bống bay. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, có vinh dự là tàu ngầm đầu tiên đánh chìm một tàu đối phương trong cuộc xung đột. Nó đã thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm 12 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 71.047 tấn, xếp thứ mười lăm về tải trọng tàu trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Nó mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng, có thể bị đắm ngoài khơi quần đảo Maug vào ngày 18 tháng 4, 1944. Gudgeon được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào đầu năm 1943, Gudgeon được nâng cấp lên cỡ pháo 4-inch. Gudgeon được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare Island ở Vallejo, California vào ngày 22 tháng 11, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 1, 1941, được đỡ đầu bởi bà Annie B. Pye, phu nhân Phó đô đốc William S. Pye, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 4, 1941 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Elton W. Grenfell. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Gudgeon được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 12 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 71.047 tấn, xếp thứ mười lăm về tải trọng tàu trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-211 On Eternal Patrol: USS Gudgeon Uboat.net: Gudgeon (SS-211) Imperial Japanese Navy Page: IJN Submarine I-73 Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu ngầm bị mất tích trong Thế Chiến II Xác tàu đắm tại Thái Bình Dương trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1944 Tàu thủy năm 1941
19857760
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Gudgeon
USS Gudgeon
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Gudgeon, theo tên chung của nhiều loài cá chép, cá bống đen và cá bống bay: là một nhập biến chế năm 1941 và bị mất năm 1944 là một trong biên chế từ năm 1952 đến năm 1983 trước khi chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857775
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mario%20Zebi%C4%87
Mario Zebić
Mario Zebić (sinh 17 tháng 12 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Croatia thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An tại V.League 1. Trong sự nghiệp của mình, Zebić đã chơi ở một số quốc gia, bao gồm quê hương Croatia, Đức, Slovenia, Ba Lan, România và Việt Nam. Danh hiệu Varaždin Giải bóng đá hạng ba Croatia: 2018–19 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1995 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Croatia Hậu vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá RNK Split Cầu thủ bóng đá NK Mosor Cầu thủ bóng đá NK Dugopolje Cầu thủ bóng đá NK Primorac 1929 Cầu thủ bóng đá NK Imotski Cầu thủ bóng đá NK Varaždin (2012) Cầu thủ bóng đá NK Tabor Sežana Cầu thủ bóng đá Korona Kielce Cầu thủ bóng đá FC Argeș Pitești Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An Cầu thủ Giải bóng đá hạng hai Croatia Cầu thủ Bayernliga Cầu thủ bóng đá Slovenia PrvaLiga Cầu thủ bóng đá Ekstraklasa Cầu thủ bóng đá Liga Cầu thủ bóng đá Liga I Cầu thủ bóng đá V.League 1 Cầu thủ bóng đá Croatia ở nước ngoài Vận động viên Croatia ở Đức Vận động viên Croatia ở Slovenia Vận động viên Croatia ở Ba Lan Vận động viên Croatia ở România Vận động viên Croatia ở Việt Nam Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Slovenia Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ba Lan Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở România Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam
19857776
https://vi.wikipedia.org/wiki/1234%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
1234 (định hướng)
1234 là một năm trong lịch Julius. 1234 cũng có thể là: 1234 Elyna, một tiểu hành tinh. Các số tự nhiên. 1 + 2 + 3 + 4 + ⋯, một chuỗi số toán học. 1 - 2 + 3 - 4 + ⋯, một chuỗi số khác. 1-2-3-4 Go! Records, hãng thu âm.
19857777
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dorel%20Zugr%C4%83vescu
Dorel Zugrăvescu
Dorel Zugrăvescu (25 tháng 11 năm 1930 - 20 tháng 11 năm 2019) là một nhà địa vật lý người România, được bầu làm viện sĩ thông tin của Viện hàn lâm România năm 1991, và là thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Moldova. Ông sinh ra ở Râmnicu Vâlcea, và qua đời tại Constanța, thọ 88 tuổi. Nghiên cứu Ông tốt nghiệp Viện Mỏ Bucharest (Institutul de Mine București), Khoa Địa vật lý (1948-1954). Ông trở thành tiến sĩ khoa học, với chuyên ngành địa vật lý, tại Đại học Bucharest, với luận án "Contributions to the geodynamic study of the Romanian territory" (Contribuții la studiul geodinamic al teritoriului României), năm 1985, và có bằng tiến sĩ khoa học, chuyên ngành y học thay thế, vào năm 1987. Hoạt động chuyên môn Ông bắt đầu công việc nghiên cứu với vai trò nghiên cứu sinh tại Institutul de Fizică (1955–1965), tiếp đó là vai trò nghiên cứu sinh chính tại Centrul de Cercetări Geofizice al Academiei Române (1965–1968), trưởng phòng thí nghiệm tại Phòng thí nghiệm Địa động lực học, của Centrul de Cercetări Geofizice al Academiei Române (1968–1970), tại Đài thiên văn Bucharest ở Bucharest (1970–1977), tại Centrul de Fizica Pământului (1977–1990), Nghiên cứu viên chính thứ nhất; Giám đốc của Institutul de Geodinamică [Sabba S. Ștefănescu] al Academiei Române (từ năm 1990). Từ năm 1977, ông làm phó giáo sư tại Khoa Địa vật lý tại Đại học Bucharest, và từ năm 1990, ông là tiến sĩ giám sát trong ngành Vật lý, chuyên về Vật lý toàn cầu. Tham khảo Sinh năm 1930 Mất năm 2019 Người Râmnicu Vâlcea Nhà địa vật lý România Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm România Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Moldova Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Romania Cựu sinh viên Đại học Politehnica Bucharest Cựu sinh viên Đại học Bucharest Giảng viên Đại học Bucharest
19857779
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Pellerin%20Hu%E1%BA%BF
Trường Pellerin Huế
Trường Pellerin Huế, còn gọi là Trường La San Bình Linh, là một trong những trường công giáo (dòng) tư thục nổi tiếng tại Huế. Trường thành lập 1904 và đóng cửa năm 1975. Trường do các sư dòng tu La Salle (tiếng Việt: Dòng La San) quản lý. Trường cung cấp giáo dục tiểu học và trung học, cung cấp nhiều hỗ trợ cho học sinh nghèo. Trường dạy chương trình của Pháp. Khuôn viên trường khá rộng và xây dựng theo kiến trúc của Pháp, là một trong ít công trình kiến trúc Pháp còn sót lại ở Huế. Từ năm 2008, trường đã được cải tạo với nhiều tòa nhà và trở thành Học viện Âm nhạc Huế. Những cựu học sinh nổi tiếng của trường như Hàn Mạc Tử (từ 1928 đến 1930), Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục (học tiểu học), Nguyễn Văn Thiệu (học trung học), Trịnh Công Sơn (học trung học đệ nhất cấp (THCS) - lớp 6 đến lớp 9), Thanh Tịnh. Chú thích Nhà Nguyễn Giáo dục Thừa Thiên Huế Công trình xây dựng Huế Trường trung học tại Thừa Thiên Huế Trường Trung học ở Liên bang Đông Dương
19857781
https://vi.wikipedia.org/wiki/Z%C3%BC%C4%9F%C3%BCrt%20A%C4%9Fa
Züğürt Ağa
Züğürt Ağa là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ năm 1985 của đạo diễn Nesli Çölgeçen. Diễn viên Şener Şen - Agha Erdal Özyağcılar - Kekec Salman Nilgün Nazli - Kiraz Füsun Demirel - vợ của Agha Liên kết ngoài Phim năm 1985 Phim hài năm 1985 Nhạc nền phim của Attila Özdemiroğlu Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ Phim tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thập niên 1980
19857785
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3ng%20so%20s%C3%A1nh%20c%C3%A1c%20h%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20phi%C3%AAn%20%C3%A2m%20ti%E1%BA%BFng%20Quan%20tho%E1%BA%A1i%20ti%C3%AAu%20chu%E1%BA%A9n
Bảng so sánh các hệ thống phiên âm tiếng Quan thoại tiêu chuẩn
Bảng so sánh các hệ thống phiên âm tiếng Quan thoại tiêu chuẩn này bao gồm một danh sách tất cả các âm tiết được coi là có thể phân biệt về mặt âm vị trong tiếng Quan thoại tiêu chuẩn. Quốc ngữ La Mã tự sử dụng cách viết khác nhau cho mỗi thanh điệu, trong khi các hệ thống khác sử dụng dấu thanh điệu hoặc chữ số siêu ký tự. Bảng so sánh Xem thêm Latinh hóa tiếng Trung Quốc Phiên âm sang tiếng Trung Quốc Bảng bính âm Chú thích Tham khảo Hệ thống phiên âm tiếng Quan thoại tiêu chuẩn
19857789
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zugverkehr%20unregelm%C3%A4%C3%9Fig
Zugverkehr unregelmäßig
Zugverkehr unregelmäßig là một bộ phim của Cộng hòa Dân chủ Đức được phát hành năm 1951. Tài liệu Frank-Burkhard Habel: Das große Lexikon der DEFA-Spielfilme. Schwarzkopf & Schwarzkopf, Berlin 2000, , pp. 710–711. Tham khảo Liên kết ngoài Phim năm 1951 Phim Cộng hòa Dân chủ Đức Phim tiếng Đức thập niên 1950 Phim lấy bối cảnh ở Berlin Phim trắng đen Đức Phim Đức thập niên 1950
19857792
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuhair%20Aizat
Zuhair Aizat
Muhammad Zuhair Aizat bin Mohd Nazri (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá Malaysia thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Sri Pahang. Danh hiệu Sri Pahang Cúp FA Malaysia: 2018; á quân: 2017 Á quân Giải bóng đá vô địch quốc gia Malaysia: 2017, 2018 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1996 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Malaysia Cầu thủ bóng đá Sri Pahang FC Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Malaysia Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Pahang
19857794
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dragon%20Quest%20-%20D%E1%BA%A5u%20%E1%BA%A5n%20Roto%20-%20Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20k%E1%BA%BF%20th%E1%BB%ABa
Dragon Quest - Dấu ấn Roto - Những người kế thừa
, Anh: Dragon Quest Saga: Emblem of Roto - To the children who inherit the Emblem) là một bộ truyện tranh Nhật Bản được xây dựng bối cảnh và tình tiết dựa trên cốt truyện của bộ ba game Dragon Quest I - II - III (còn gọi là Roto Trilogy hay Erdrick Trilogy). Đây cũng là phần hậu truyện trực tiếp từ manga gốc Dragon Quest - Dấu ấn Roto. Bộ truyện được minh họa bởi Kamui Fujiwara, biên kịch bởi Jun Eishima (40 chương đầu, từ tập 1 đến tập 4) và Takashi Umemura (những chương còn lại), dưới sự giám sát của Yuji Horii. Truyện được đăng dài kì trên tạp chí seinen manga của Square Enix - Young Gangan, từ 2004 đến tháng Một 2020, với tổng cộng 320 chương và được tập hợp thành 34 tập tankōbon. Phiên bản tiếng Việt của manga được phát hành bởi NXB Kim Đồng, tiếng Pháp bởi Mana Books và tiếng Ý bởi Star Comics. Cốt truyện Khoảng 7 năm sau phần tiền truyện Dragon Quest - Dấu ấn Roto, những bi kịch mới lại lần lượt giáng xuống Thế Gian: thần chú mất tác dụng ở cả thế giới trên và dưới mặt đất, gọi là "Ngày biến mất"; cư dân thành Ladutorm sau đó cũng tan biến không một dấu vết, ngoại trừ Vương tử Aros-8-tuổi đã mất đi toàn bộ kí ức. Aros từ đó phải sống nương nhờ vào một băng cướp - những kẻ đã lợi dụng tài năng chiến đấu thiên bẩm của cậu vào những việc bất lương. Còn vương quốc, vì thiếu vắng Đức vua và Triều đình, cũng lâm vào hỗn loạn. Câu chuyện khai thác hành trình tìm lại những gì đã mất của Aros bên cạnh những người đồng đội, đồng thời khám phá những bí ẩn đằng sau các hiện tượng dị thường, cũng như, bảo vệ thế gian trước những mối hiểm nguy đang âm thầm rình rập. Nhân vật Nhóm Dũng sĩ mới Aros (アロス) Lee (リー) Bezel (ベゼル) Yui (ユイ) Leben (レーベン) Nhóm Quinzolma Mẫu thân/Quinzolma (クインゾルマ) Zoma (ゾーマ) Ramia (ラーミア) Anis (アニス) Harold (ハロルド) Rồng thủ hộ Nhân vật từ Tiền truyện Nhân vật khác Thông tin các tập Phát hành Khái quát nội dung Tham khảo
19857801
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hussein%20Al-Zuhairi
Hussein Al-Zuhairi
Hussein Jasim Al-Zuhairi (mất ngày 24 tháng 11 năm 2020) là một chính khách Iraq. Cuộc đời và sự nghiệp Hussein Al-Zuhairi sinh ra ở Iraq, và là đại biểu Hội đồng Đại biểu Iraq đại diện cho tỉnh Diyala. Ông cũng từng là Thứ trưởng Bộ Nhân quyền và Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Ông qua đời vì biến chứng COVID-19 ở Liban vào ngày 24 tháng 11 năm 2020. Tham khảo Mất năm 2020 Đại biểu Hội đồng Đại biểu Iraq Tử vong vì đại dịch COVID-19 tại Liban Bộ trưởng Iraq
19857819
https://vi.wikipedia.org/wiki/Electric%20Eye%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
Electric Eye (bài hát)
"Electric Eye" là đĩa đơn thứ hai của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest trích từ album Screaming for Vengeance (1982). Ca khúc đã trở thành tiết mục then chốt tại các buổi hòa nhạc, và thường là tiết mục mở màn của nhóm. Nhà phê bình Steve Huey của AllMusic nhận xét ca khúc là một tác phẩm kinh điển. Benediction, Helloween và nhiều ban nhạc khác từng cover bài hát này. Hoàn cảnh ra đời Về mặt âm nhạc, ca khúc được sáng tác ở khóa Mi thứ, và khúc guitar solo trong bài do Glenn Tipton thể hiện. "Electric Eye" là phép ám chỉ cuốn sách 1984 của George Orwell, tên bài sử dụng tên của chiếc máy ghi hình của chính phủ toàn trị theo dõi cộng đồng mọi lúc. Ở thế giới phản địa đàng này, hình thái chính phủ Ingsoc (Newspeak của chủ nghĩa xã hội Anh) vô cùng toàn trị, và nếu công dân bị bắt quả tang nổi loạn dưới bất kỳ hành động nào, họ sẽ "biến mất". Tuy nhiên trong bài hát của Judas Priest, các máy ghi hình được nâng cấp để có được hình hài của một chiếc vệ tinh quyền năng - chúng được "lựa chọn" (elected) để chụp "những tấm ảnh có thể làm bằng chứng" (pictures that can prove), và "làm đất nước trong sạch" (keep the country clean). Do đó, bài hát được ví như "lời tiên tri" miêu tả quốc gia giám sát hàng loạt, hoạt động dưới vỏ bọc là một quốc gia dân chủ. Cover và sử dụng khác Helloween đã thu một bản của ca khúc này cho album tri ân Tribute to Judas Priest: Legends of Metal. Bài hát cũng có mặt trong đĩa đơn "The Time of the Oath" và trong bản mở rộng của album The Time of the Oath. "Electric Eye" có mặt trong trò chơi video Grand Theft Auto: Vice City Stories (2006) ở trạm phát thanh trong game tên là "V-Rock". Ca khúc cũng là bài chơi được trong Guitar Hero Encore: Rocks the 80s dưới dạng master track, kể cả "The Hellion", và còn xuất hiện trong Guitar Hero Smash Hits. Ngoài ra, nhạc phẩm cũng có mặt trên phần tải nhạc số của Rock Band, tính đến 22 tháng 4 năm 2009, nằm trong toàn bộ album nhạc số Screaming for Vengeance. Đây cũng là bài trailer thứ hai cho trò chơi video Brütal Legend. Nhân sự Rob Halford – hát Glenn Tipton – lead guitar K. K. Downing – rhythm guitar Ian Hill – bass Dave Holland – trống Xếp hạng Chú thích Đĩa đơn của Columbia Records Bài hát năm 1982 Đĩa đơn năm 1982 Âm nhạc dựa trên tiểu thuyết 1984 Tác phẩm nói về giám sát hàng loạt Bài hát do Rob Halford sáng tác Bài hát do K. K. Downing sáng tác Bài hát do Glenn Tipton sáng tác Bài hát của Judas Priest
19857828
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sakar%20%C5%9Eakir
Sakar Şakir
Sakar Şakir là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ năm 1977 của đạo diễn Natuk Baytan. Diễn viên Kemal Sunal - Sakir Adile Naşit - Fatma Sen Ali Şen - Haci Sen Ünal Gürel - Gardrop Fuat Ayfer Feray - Sevda Necdet Yakın - Lufer Atilla Ergün - Sukru Kamer Sadik - Sabri Tham khảo Liên kết ngoài Phim hài năm 1977 Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ Phim năm 1977 Phim Thổ Nhĩ Kỳ thập niên 1970
19857834
https://vi.wikipedia.org/wiki/Souad%20Zuhair
Souad Zuhair
Souad Zuhair (, 1925 - 2000) là một nhà văn Ai Cập làm việc cho tạp chí Rose al-Yūsuf. Bà sinh ra ở El Rahmaniya, là con gái của một giáo viên tiếng Anh và nhà báo. Bà học xong cấp trung học năm 1938 nhưng không thể học xong đại học do gánh nặng tài chính sau khi cha bà qua đời. Bà bị bắt giam vì hoạt động chính trị vào năm 1948. Đời tư Bà là mẹ của Lenin El-Ramly. Tác phẩm I 'tirafat imra 'a mustarjila, tiểu thuyết (1960) Khitab ila rajul 'asri, tiểu thuyết (1994) Tham khảo Sinh năm 1925 Mất năm 2000 Nữ nhà văn Ai Cập thế kỷ 20 Tiểu thuyết gia thế kỷ 20 Nữ tiểu thuyết gia Ai Cập Nữ nhà báo Ai Cập Người Beheira
19857835
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mohammad%20Zuhdi%20Nashashibi
Mohammad Zuhdi Nashashibi
Mohammad Zuhdi Nashashibi (1925 – 27 tháng 1 năm 2020), còn có tên khác là Abu Zuhdi, là một chính khách Palestine. Ông là Bộ trưởng Tài chính Chính quyền Dân tộc Palestine đầu tiên. Ông giữ chức vụ này từ năm 1994 đến năm 2002. Tiểu sử Zuhdi Nashashibi sinh năm 1925 tại Jerusalem trong gia tộc Nashashibi. Ông từng làm việc tại Ngân hàng Thương mại Syria. Ông từng giữ chức Ủy viên Ban chấp hành của Tổ chức Giải phóng Palestine, chuyên trách về kinh tế. Ông cũng là chủ tịch Quỹ Dân tộc Palestine. Zuhdi Nashashibi trở về quê hương sau Hiệp định Oslo năm 1994. Ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tài chính Chính quyền Dân tộc Palestine trong cùng năm đó, và giữ chức vụ này cho đến năm 2002. Zuhdi Nashashibi qua đời vào ngày 27 tháng 1 năm 2020, thọ 95 tuổi. Tham khảo Sinh năm 1925 Mất năm 2020 Bộ trưởng Tài chính Chính quyền Dân tộc Palestine Bộ trưởng Chính quyền Dân tộc Palestine Thành viên Fatah Người Jerusalem Chôn cất tại Nghĩa trang Sahab Ủy viên Ban chấp hành Tổ chức Giải phóng Palestine
19857847
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h%C3%B3a%20ki%E1%BB%83u%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
Hiện đại hóa kiểu Trung Quốc
Hiện đại hóa kiểu Trung Quốc (tiếng Trung: 中国式现代化; Hán-Việt: Trung Quốc thức hiện đại hóa) còn gọi là hiện đại hóa Trung Quốc hoặc con đường hiện đại hóa Trung Quốc, là một khẩu hiệu chính trị do Đảng Cộng sản Trung Quốc thúc đẩy nhằm tự hào về một mô hình hiện đại hóa tương phản với sự phát triển theo kiểu phương Tây và nhấn mạnh sức mạnh của Mô hình kinh tế và chính trị của Trung Quốc. Lịch sử Thuật ngữ này có từ năm 1979, khi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã nhắc đến nó trong bài phát biểu vào tháng 3 năm 1979 về bốn nguyên tắc cơ bản. Nó đã trở thành một cụm từ độc lập dưới thời Tổng Bí thư Tập Cận Bình khi vào tháng 4 năm 2021, Nhân dân nhật báo đăng một số bài báo về "mổ xẻ hiện đại hóa kiểu Trung Quốc", khiến các cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc còn lại cũng làm như vậy. Vương Hỗ Ninh, nhà lý luận chính trị hàng đầu dưới thời Tập Cận Bình, được coi là người có liên quan đến việc phát triển thuật ngữ này. Thuật ngữ này nổi bật trong "nghị quyết lịch sử" của Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình, được thông qua vào năm 2021. Nghị quyết nói rằng hiện đại hóa kiểu Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy "sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa". Thuật ngữ này xuất hiện 11 lần trong báo cáo chính trị của Tập Cận Bình trước Đại hội lần thứ XX tổ chức vào tháng 10 năm 2022. Thuật ngữ này cũng được nhắc đến một cách nổi bật tại phiên họp đầu tiên trong Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc lần thứ XIV vào tháng 3 năm 2023. Tổng quan Thuật ngữ này được coi là một nỗ lực của Tập Cận Bình nhằm tập trung vào việc củng cố vị thế của Trung Quốc trên thế giới. Nó cũng được giới lãnh đạo Trung Quốc sử dụng để hình dung ra một kiểu phát triển mới trên thế giới; Tập Cận Bình nói rằng hiện đại hóa kiểu Trung Quốc "phá vỡ huyền thoại về 'hiện đại hóa đồng nghĩa với phương Tây hóa". Theo Tập Cận Bình, hiện đại hóa kiểu Trung Quốc có "năm đặc điểm" () và "chín yêu cầu cơ bản" (): Đặc biệt, đạt được sự thịnh vượng chung được coi là một trong những nguyên lý then chốt của công cuộc hiện đại hóa kiểu Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình; Trương Trạm Bân, một quan chức tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã viết cho tờ Nhân dân nhật báo rằng hiểu được vai trò của sự thịnh vượng chung là rất quan trọng để "nhận thức rõ ràng sự khác biệt lớn giữa hiện đại hóa kiểu Trung Quốc và con đường hiện đại hóa phương Tây". Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng "hiện đại hóa Trung Quốc là hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa" và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc là rất quan trọng đối với hiện đại hóa kiểu Trung Quốc. Ông cho biết nếu không có sự lãnh đạo của Đảng, hiện đại hóa kiểu Trung Quốc "sẽ đi chệch hướng, mất linh hồn hoặc thậm chí gây ra những sai lầm thảm khốc." Tham khảo Khẩu hiệu Tập Cận Bình Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
19857862
https://vi.wikipedia.org/wiki/Korkusuz%20Korkak
Korkusuz Korkak
Korkusuz Korkak là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ năm 1979 của đạo diễn Natuk Baytan. Diễn viên Kemal Sunal - Mülayim Sert Turgut Özatay - Ayı Abbas Ayşin Atav - Sevil Nejat Gürçen - Patron Zafer Önen - Müdür Tham khảo Liên kết ngoài Phim năm 1979 Phim hình sự hài Thổ Nhĩ Kỳ Phim xã hội đen Thổ Nhĩ Kỳ Phim hình sự hài thập niên 1970 Phim hài năm 1979
19857863
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meiacanthus%20geminatus
Meiacanthus geminatus
Meiacanthus geminatus là một loài cá biển thuộc chi Meiacanthus trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1976. Từ nguyên Tính từ định danh geminatus trong tiếng Latinh có nghĩa là “gấp đôi, theo cặp”, hàm ý đề cập đến việc loài cá này được cho là có tổ tiên chung với Meiacanthus vittatus. Phân bố và môi trường sống M. geminatus có phân bố nhỏ hẹp, từ đảo Palawan (Philippines) kéo dài về phía tây nam đến bờ đông bắc đảo Borneo. M. geminatus sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 17 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở M. geminatus là gần 5 cm. Loài này có một sọc đen dọc bên lườn ngăn cách hai màu cơ thể: thân trên sọc màu trắng xám, thân dưới sọc màu vàng sẫm. Vây lưng hầu hết là màu nâu sẫm, ngoại trừ một viền trắng rất mỏng. Số gai vây lưng: 4; Số tia vây lưng: 26–27; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 15–18. Sinh thái Trứng của M. geminatus có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ. Các loài Meiacanthus đều có tuyến nọc độc trong răng nanh. Do đó, chúng là hình mẫu để nhiều loài khác bắt chước theo, gọi là bắt chước kiểu Bates (loài không độc bắt chước kiểu hình, hành vi của một loài có độc). M. geminatus được bắt chước bởi cá sơn Cheilodipterus zonatus và cá lượng con Scolopsis margaritifera. Tham khảo G Cá Thái Bình Dương Cá Malaysia Cá Philippines Cá có độc Động vật được mô tả năm 1976
19857869
https://vi.wikipedia.org/wiki/Korku
Korku
Korku có thể đề cập đến: Người Korku, dân tộc ở Ấn Độ Tiếng Korku, ngôn ngữ Nam Á Körkü, Sungurlu
19857870
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20c%C3%B3%20t%C3%ACnh%20d%E1%BB%A5c%20%E1%BB%9F%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4
Không có tình dục ở Liên Xô
Không có tình dục ở Liên Xô () là một câu cửa miệng trong tiếng Nga, xuất phát từ lời nói của một người Liên Xô tham gia "cầu truyền hình" Leningrad, Boston có tựa đề "Women Talk to Women", được ghi âm vào ngày 28 tháng 6 và phát sóng vào ngày 17 tháng 7 năm 1986. Lịch sử Năm 1986, hai người dẫn chương trình truyền hình là Vladimir Pozner của Liên Xô và Phil Donahue của Mỹ, đã tổ chức một trong những chương trình phát sóng "cầu truyền hình" đầu tiên của kỷ nguyên Glasnost, do Vladimir Mukusev đạo diễn. Trong cuộc thảo luận, một người Mỹ tham gia đã đặt câu hỏi với phụ nữ Nga: Đại biểu Liên Xô Ludmila Ivanova, quản lý Khách sạn Leningrad và là đại diện "Ủy ban Phụ nữ Liên Xô" trả lời: Cụm từ này chìm trong tiếng cười và tiếng vỗ tay. Một đại biểu Liên Xô khác nói lớn: Trong văn hóa đại chúng, cụm từ này đã biến thành "Không có tình dục ở Liên Xô". Văn hóa Cụm từ "Không có tình dục ở Liên Xô" được sử dụng rộng rãi trong tiếng Nga để mô tả định kiến và chủ nghĩa phản đối tình dục trong văn hóa Liên Xô cũng như những điều cấm kỵ trong việc thảo luận công khai về các chủ đề liên quan đến tình dục. Ngược lại, những người ủng hộ chế độ Xô Viết trước đây lại đề cập đến nó như một ví dụ về một cụm từ bị những kẻ gièm pha Liên Xô đưa ra khỏi ngữ cảnh. Nhân vật quan chức do Alexander Shirvindt thủ vai trong bộ phim hài năm 1987 Forgotten Melody for a Flute của Eldar Ryazanov đang xin lỗi vì đã cho phép nghệ thuật thân mật bằng cách nói "Không có tình dục". Cụm từ này được nhắc đến nhiều lần trong bộ phim hài Deja Vu của Liên Xô-Ba Lan năm 1990. Cụm từ này đã truyền cảm hứng cho tiêu đề của bộ phim truyền hình Nga năm 2004 Union Without Sex. Trích dẫn Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Komsomolskaya Pravda năm 2004, chính Ivanova đã trình bày một phiên bản hơi khác của câu chuyện: Việc Ivanova hoàn thành câu nói "Chúng tôi có tình yêu" đã được giám đốc đài truyền hình Vladimir Mukusev xác nhận. Ghi chú lịch sử Nhà dân tộc học người Mỹ Kristen Ghodsee cho rằng đời sống tình dục của phụ nữ dưới Chủ nghĩa Xã hội trên thực tế phong phú hơn dưới Chủ nghĩa Tư bản nhờ sự độc lập về kinh tế lớn hơn. Sự cố "cầu truyền hình" được nhà ngôn ngữ học người Ba Lan Anna Wierzbicka sử dụng như một ví dụ cho thấy rằng mặc dù tình dục dưới dạng hiện tượng là "một lẽ tất yếu của cuộc sống con người", một từ có nghĩa là tình dục không tồn tại ở hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới giống như trong tiếng Anh, và khi nó tồn tại, nó thường là từ mượn từ tiếng Anh. Bản thân Ivanova về sau đã di cư sang Đức. Tham khảo Liên kết ngoài Clip trao đổi bằng tiếng Anh và tiếng Nga: Từ ngữ Liên Xô Tình dục và xã hội Tình dục Liên Xô Truyền hình Liên Xô Lịch sử tình dục người Từ và cụm từ tiếng Nga Thuật ngữ theo hệ tư tưởng
19857872
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oliver%20Bearman
Oliver Bearman
Oliver James Bearman (sinh ngày 8 tháng 5 năm 2005) là một tay đua người Anh hiện đang thi đấu tại Giải đua xe Công thức 2 2024 cho đội đua Prema Racing và đồng thời là một thành viên của Ferrari Driver Academy. Bên cạnh đó, anh hiện là tay đua dự bị của hai đội đua Scuderia Ferrari và Haas tại Công thức 1. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2024, anh đã ra mắt tại chặng đua Công thức 1 đầu tiên trong sự nghiệp của mình ở Ả Rập Xê Út sau khi thay thế Carlos Sainz Jr. Sự nghiệp đua xe Đua xe kart Bearman bắt đầu đua xe kart vào năm 2013 khi anh đua giành chức vô địch của giải đua xe kart Câu lạc bộ Thung lũng Trent. Sau đó, anh chuyển sang thi đấu tại Giải vô địch đua xe kart quốc gia Super 1, nơi anh đã giành được thành tích tốt nhất khi đứng chung cuộc ở vị trí á quân lần lượt vào các năm 2016 và 2017 khi đua ở hạng mục Cadet. Sau đó, anh đã vô địch giải đua xe Kartmasters British Grand Prix vào năm 2017 và đã kết thúc sự nghiệp đua xe kart của mình một cách thành công vào năm 2019 với chiến thắng tại IAME International Final, IAME Euro Series và IAME Winter Cup. Giải đua xe Công thức 4 Ý và Giải đua xe Công thức 4 ADAC 2020 Vào năm 2020, Bearman ra mắt tại Giải đua xe Công thức 4 ADAC với US Racing, đồng thời tham gia tại ba chặng đua tại Giải đua xe Công thức 4 Ý. Anh ghi điểm tại hai chặng đua đầu tiên trước khi giành chiến thắng đầu tiên tại trường đua Hockenheimring. Bearman tiếp tục lên bục trao giải hai lần ở Nürburgring và Oschersleben. Anh đứng thứ bảy chung cuộc trên bảng xếp hạng các tay đua trước đồng đội tân binh Vladislav Lomko, nhưng xếp sau tân binh hàng đầu và đồng đội Tim Tramnitz sau mùa giải Công thức 4 ADAC 2020. Tại Giải đua xe Công thức 4 Ý, anh đã lên bục trao giải tổng cộng hai lần, một trong số đó là chiến thắng trong cuộc đua ở Vallelunga. Anh đứng thứ 10 trên bảng xếp hạng các tay đua chung cuộc của mùa giải Công thức 4 Ý 2020. 2021 Bearman chuyển đến Van Amersfoort Racing trong mùa giải 2021 để thi đấu ở cả Giải đua xe Công thức 4 Đức lẫn Ý. Tại Giải đua xe Công thức 4 Ý, anh bắt đầu mùa giải với vị trí thứ ba tại Paul Ricard. Tiếp theo, anh lên bục trao giải tại một cuộc đua cũng được tổ chức ở Paul Ricard. Bearman đã giành chiến thắng liên tiếp tại lần lượt chín và bảy cuộc đua, bao gồm hai chiến thắng ở Misano, một hattrick chiến thắng tại Vallelunga và hai chiến thắng ở Imola. Trong số các cuộc đua đó, anh đã đánh mất chiến thắng tại cuộc đua thứ ba ở Imola do bị loại khỏi kết quả chung cuộc vì động cơ không tuân thủ quy định. Không nản lòng, Bearman đã giành được chiến thắng thứ tám trong mùa giải ở cuộc đua tiếp theo tại Red Bull Ring và tiếp tục lên bục trao giải tại cuộc đua thứ hai cũng ở Red Bull Ring. Tại chặng đua áp chót của mùa giải, Bearman giành chức vô địch khi về đích ở vị trí thứ 10 ở cuộc đua thứ ba khiến chức vô địch nằm ngoài tầm kiểm soát của đối thủ gần nhất là Tim Tramnitz. Tại Giải đua xe Công thức 4 Đức, Bearman đã giành được sáu chiến thắng và sau trận tranh giành chức vô địch kéo dài một mùa giải với Tramnitz, anh đã giành được chức vô địch tại đêm chung kết mùa giải tại Nürburgring, qua đó trở thành tay đua đầu tiên đạt được hai chức vô địch Công thức 4 liên tiếp trong một năm. Vào tháng 9 năm 2021, Bearman đã được đề cử cho Giải thưởng Autosport BRDC thông qua hai chức vô địch Công thức 4 của mình. Ngoài ra, vào tháng 12 năm 2021, Bearman đã được trao Giải thưởng Henry Surtees cho màn trình diễn xuất sắc của mình. Công thức 2 2024 Bearman sẽ ở lại Prema Racing trong mùa giải 2024 và đồng đội của anh là tay đua trẻ của Mercedes và nhà vô địch FRECA 2023 người Ý Andrea Kimi Antonelli. Tại chặng đua đầu tiên ở Sakhir, Bearman chỉ có thể kết thúc ở vị trí thứ mười tám sau vòng phân hạng. Anh đã không thể ghi điểm trong cả chặng đua nước rút và cuộc đua chính. Bearman thiết lập thời gian vòng đua nhanh nhất trong vòng phân hạng ở Jeddah, nhưng đã rút lui để thay thế cho Carlos Sainz Jr. tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2024, khiến anh đứng cuối cùng trên bảng xếp hạng các tay đua tại Công thức 2. Công thức 1 Vào tháng 10 năm 2021, Bearman được vinh danh là một trong những người lọt vào vòng chung kết của sự kiện Scouting World Finale do Học viện Tay đua Ferrari tổ chức. Tháng sau, Bearman gia nhập Học viện này cùng với nhà vô địch đua xe kart Rafael Câmara. Vào tháng 10 năm 2023, Bearman lần đầu tiên lái một chiếc xe đua Công thức 1 trong một buổi thử nghiệm riêng với Ferrari ở trường đua Fiorano. Anh đã tham gia buổi đua thử đầu tiên trong số hai buổi đua thử miễn phí tại Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México 2023. Anh đã tham gia một buổi đua thử lần thứ hai tại Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2023. Sau đó, Bearman đã lái chiếc xe đua VF-23 trong buổi lái thử dành cho các tay lái trẻ. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2024, Bearman được bổ nhiệm làm tay đua dự bị của Ferrari cho mùa giải 2024 cùng với Robert Shwartzman và Antonio Giovinazzi. Sau đó, anh cũng được bổ nhiệm làm tay đua dự bị cho Haas cùng với Pietro Fittipaldi. Ra mắt Công thức 1 cho Ferrari (2024) Bearman ra mắt Công thức 1 sau khi thay thế Carlos Sainz Jr. trong phần còn lại của Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2024 do Sainz Jr. bị viêm ruột thừa. Anh kết thúc ở vị trí thứ 11 tại vòng phân hạng, suýt chút nữa có cơ hội xuất hiện ở Q3. Sau đó, anh đã nhận được lời khen ngợi từ Lewis Hamilton cùng những người khác. Anh đứng thứ bảy tại cuộc đua chính và giành được điểm đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1. Đồng thời, anh cũng là tay đua trẻ nhất ghi điểm ngay tại chặng đua đầu tiên. Đời tư Bearman sinh ngày 8 tháng 5 năm 2005 ở Chelmsford, Essex, có cha tên là David và mẹ tên Terri Bearman. Anh có một em trai tên là Thomas và một em gái tên là Amelie. Em trai Thomas của anh hiện đang đua xe kart. Bearman từng theo học tại Trường chuyên King Edward VI ở thành phố quê hương Chelmsford. Thống kê sự nghiệp đua xe go-kart Thống kê sự nghiệp Thống kê tổng thể Chú thích * Mùa giải đang diễn ra. Thống kê kết quả chi tiết Giải đua xe Công thức 4 ADAC Giải đua xe Công thức 4 Ý Công thức 1 Chú thích * Mùa giải đang diễn ra. Chú thích mở rộng cho các bảng trên Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2005 Nhân vật còn sống Người Anh Người Chelmsford Tay đua người Anh Tay đua Công thức 1 người Anh Vận động viên đua xe Công thức 1 Anh Tay đua Giải đua xe Công thức 4 Ý Tay đua Giải đua xe Công thức 4 ADAC Tay đua Giải đua xe Công thức 3 Anh Tay đua Giải đua xe Công thức 3 Tay đua Prema Powerteam Tay đua Formula Regional Asian Championship Tay đua Fortec Motorsport Tay đua Mumbai Falcons Tay đua Công thức 2 Tay đua Công thức 1 Vận động viên đua xe Công thức 1
19857880
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20kim%20t%E1%BB%B1%20th%C3%A1p
Trò chơi kim tự tháp
Trò chơi kim tự tháp (Tiếng Hàn: 피라미드 게임, Tiếng Anh: Pyramid Game) là một bộ phim truyền hình sinh tồn tâm lý ly kỳ đang diễn ra của Hàn Quốc do Lee Jae-gyun, Choi Soo-i viết kịch bản, Park So-yeon đạo diễn và có sự tham gia của Kim Ji-yeon, Jang Da-ah, Ryu Da-in, Shin Seul-ki và Kang Na-eon. Dựa trên webtoon cùng tên trên Naver webtoon của Dalgonyak, phim kể câu chuyện về một trường trung học nữ sinh, nơi các cuộc thăm dò mức độ nổi tiếng được sử dụng để xếp hạng học sinh trong lớp và sự đối xử phân biệt dẫn đến bạo lực học đường. Phim được phát hành trên TVING vào ngày 29 tháng 2 năm 2024, phát hành hai tập vào thứ Năm hàng tuần lúc 12:00 (KST). Nó cũng được phát trực tuyến trên Paramount+ ở các khu vực được chọn. Diễn viên Vai chính Kim Ji-yeon vai Seong Su-ji: Học sinh chuyển trường đến lớp 2–5 của trường trung học nữ sinh Baekyeon. Cô có kỹ năng xã hội tốt và tính cách thẳng thắn, sau đó vướng vào trò chơi kim tự tháp và trở thành nạn nhân của bạo lực học đường, nhưng cô lại dẫn đầu một nhóm với mục đích xóa bỏ trò chơi đó. Jang Da-ah vai Baek Ha-rin: Học sinh của lớp 2–5 của trường trung học nữ sinh Baekyeon. Cô luôn được yêu mến bởi tính cách hiền lành, đoan trang nhưng ẩn sau đó lại là sự thông minh. Ryu Da-in Myeong Ja-eun: Một học sinh của trường trung học nữ sinh Baekyeon lớp 2–5, luôn rụt rè nhưng tình cảm với mọi người và tỏa sáng hơn trong đám đông so với khi ở một mình. Shin Seul-ki vai Seo Do-ah: Lớp trưởng lớp 2–5 và là học sinh đứng đầu trường trung học nữ sinh Baekyeon. Kang Na-eon vai Im Ye-rim: Một thực tập sinh idol của trường trung học nữ sinh Baekyeon, người dễ tính, không giống như gia đình thoải mái và cuộc sống hàng ngày hào nhoáng của cô. Vai phụ Jeong Ha-dam vai Go Eun-byeol Ha Yul-ri vai Bang Woo-i: Một học sinh khoe khoang dễ thương lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon, kiêu hãnh và kiêu căng nhưng cũng hòa đồng và dễ thương khiến cô không thể ghét được. Cô ấy khao khát và ngưỡng mộ Ha-rin. Hwang Hyun-jung vai Kim Da-yeon: Con gái út của một gia đình tài phiệt. Lee Joo-yeon vai Shim Eun-jung: Thành viên đội bơi lội quốc gia đầy triển vọng của lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Với ấn tượng xa cách và lạnh lùng, cô ấy là người trầm tính, thẳng thắn và bướng bỉnh. Và chỉ quan tâm đến Ye-rim. Oh Se-eun vai Song Jae-hyung: Một chiến lược gia và người đam mê thần tượng giấu mặt của lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Kim Se-hee vai Pyo Ji-ae: Học sinh lớp 2–5 tại trường trung học nữ sinh Baekyeon với "tâm lý thủy tinh", quen đổ lỗi cho người khác và bảo vệ bản thân, nhưng đã thay đổi sau khi gặp Su-ji. Choi Yoon-seo vai Gu Seol-ha: Một vận động viên judo vô cảm thuộc lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Ahn So-yo vai Yun Na-hee: Giáo viên văn học hợp đồng tại trường trung học nữ sinh Baekyeon, người quan tâm đến bạo lực học đường xảy ra trong trò chơi kim tự tháp và cố gắng tìm hiểu ngọn nguồn của nó. Son Ji-na vai Im Sun-ae: Hiệu trưởng trường trung học nữ sinh Baekyeon, người đang cố gắng che giấu bạo lực học đường. Son Ji-young vai Ra Hae-joon: Quản lý lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Yoon Ga-i vai Ju Seung-i: Học sinh lớp 2–5 tại trường trung học nữ sinh Baekyeon. Kim Ye-na vai Jeong Yeon-du Song Xi-an vai Oh Seong-ah: Một học sinh tốt bụng và thân thiện của lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Cô ấy cũng tốt bụng và phòng thủ vừa phải. Cho Dong-in vai Jo Seung-hwa: Một nhân viên bán thời gian ở cửa hàng tiện lợi nhưng có phần bí ẩn, người đã tham gia Trò chơi kim tự tháp vì Su-ji. Jeong Ae-yeon vai Choi I-hwa: Mẹ của Baek Ha-rin, con dâu của một gia đình tài phiệt và là hiệu trưởng trường trung học nữ sinh Baekyeon. Jung Seung-gil vai Seo Joo-yeon: Bố của Seo Do-ah và giám đốc bệnh viện. Choi Sung-won vai Im Ju-hyeong: Giáo viên mỹ thuật tại trường trung học nữ sinh Baekyeon, đồng thời là giáo viên chủ nhiệm lớp 2–5. Lee Da-kyung vai Yoon Ye-won: Một lập trình viên thiên tài của lớp 2–5 trường trung học nữ sinh Baekyeon. Sản xuất Vào tháng 3 năm 2023, TVING đã xác nhận việc chuyển thể bộ phim truyền hình Trò chơi kim tự tháp của Naver webtoon's Pyramid Game do Dalggonyak viết và minh họa. Phim do Park So-yeon đạo diễn, Choi Soo-i viết kịch bản, Lee Jae-gyu sáng tạo và Film Monster và CJ ENM Studios. Casting Vào tháng 6 năm 2023, TVING đã công bố dàn diễn viên bao gồm Kim Ji-yeon, Jang Da-ah, Ryu Da-in, Kang Na-eon, Jeong Ha-dam, Shin Seul-ki và Ha Yul-ri. Trong cùng tháng, các nữ diễn viên Hwang Hyun-jung, Lee Joo-yeon, Oh Se-eun, Kim Se-hee, Choi Yoon-seo, Ahn So-yo và Son Ji-na được tiết lộ là dàn diễn viên thứ hai. Phát sóng TVING đã xác nhận ngày phát hành Trò chơi kim tự tháp vào ngày 29 tháng 2 năm 2024, với bốn tập, sau đó phát hành hai tập vào thứ Năm hàng tuần cho đến ngày 21 tháng 3 năm 2024. Phim cũng phát trực tuyến trên Paramount+ trên các vùng lãnh thổ được lựa chọn. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024 Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên Chương trình chiếu mạng Hàn Quốc Phim truyền hình dựa trên webtoon của Hàn Quốc
19857895
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20h%E1%BB%99i%20An%20ninh%20m%E1%BA%A1ng%20Qu%E1%BB%91c%20gia
Hiệp hội An ninh mạng Quốc gia
Hiệp hội An ninh mạng quốc gia là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công dân và tổ chức Việt Nam, thuộc Bộ Công an, hoạt động trong lĩnh vực an ninh mạng. Tham khảo Hiệp hội
19857896
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agn%C3%A8s%20Pannier-Runacher
Agnès Pannier-Runacher
Agnès Pannier-Runacher (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1974; nhũ danh Agnès Runacher) là một nữ doanh nhân và chính trị gia người Pháp thuộc Đảng Phục hưng (LREM), bà từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Năng lượng trong chính phủ của Thủ tướng Élisabeth Borne kể từ năm 2022. Bà cũng từng là Bộ trưởng Ngoại giao về Kinh tế và Tài chính dưới thời các Thủ tướng Édouard Philippe và Jean Castex từ năm 2018 đến năm 2022. Bà tốt nghiệp trường HEC Paris, Viện Nghiên cứu Chính trị Paris và ENA. Tham khảo Doanh nhân Pháp Cựu sinh viên Trường Bách khoa Paris
19857897
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frances%20Elizabeth%20Quinn
Frances Elizabeth Quinn
Frances Elizabeth Quinn là một người lính Liên bang miền Bắc nguyên quán Ireland, từng chiến đấu trong cả bộ binh và kỵ binh thời kỳ Nội chiến Mỹ. Cô nhập ngũ hơn năm lần riêng biệt trong suốt cuộc chiến và đất nước. Lần nào cô cũng bị phát hiện là phụ nữ và buộc phải xuất ngũ. Thân thế Cha mẹ Quinn di cư từ Ireland đến La Moille, Illinois khi cô mới ba tuổi. Không lâu sau khi đến Illinois, mẹ cô sinh ra một người anh trai tên là Thomas, sau đó cha mẹ đều qua đời, để lại bọn trẻ cho hai gia đình riêng biệt chăm sóc. Frances trở thành cô con gái thay thế của nhà Reno và là cháu gái thay thế của Jesse Lee Reno, trong khi anh trai cô trở thành thành viên của nhà Cokeley. Khi Quinn tròn 12 tuổi, cô được gửi đến học trong một tu viện ở bang Virginia. Cô quay lại La Moille thì phát hiện anh trai cô đã bỏ trốn để gia nhập quân đội Liên bang miền Bắc năm 14 tuổi, thuộc Trung đoàn 52 Bộ binh Illinois. Quinn quyết tâm không để mình bị bỏ rơi và cũng quyết định nhập ngũ dù mới mười sáu tuổi. Nội chiến Mỹ Quinn lấy tên là B. Frank Miller và gia nhập đơn vị ba tháng ở Indiana, cải trang thành nam giới. Tháng 7 năm 1862, cô gia nhập Trung đoàn 2 Kỵ binh Tình nguyện Tennessee rồi gần như được giải ngũ ngay lập tức. Tháng 8 năm 1862, cô gia nhập Trung đoàn 90 Bộ binh Illinois dưới một cái tên khác. Tháng sau, cô bị Đại tá Timothy O'Meara phát hiện và bị cách chức. Đối mặt với ông ấy, cô đặt "tên thật" của mình là Eliza Miller. Cô nhập ngũ lần thứ tư, cố gắng ở lại đủ lâu để tham chiến trong Trận sông Stones vào ngày 31 tháng 12, sau bị bắn vào vai và giới tính của cô bị phát hiện lần thứ ba. Cô bèn bỏ đi tới Bowling Green, Kentucky tìm được một trung sĩ tuyển quân và gia nhập một sư đoàn kỵ binh trên cương vị là lính đánh xe ngựa. Trong khi làm nhiệm vụ, cô tình cờ gặp một nữ quân nhân khác mà cô đã quen trong thời gian ngắn ở Đội Kỵ binh số 2, người này tên là Frank Morton, bí danh Sarah Bradbury. Cả hai người được cho là say rượu và ngã xuống một con sông gần đó, rồi bị buộc tội vì hành vi gây mất trật tự trong quân đội. Cả hai đều không nói cho sĩ quan biết họ quen nhau như thế nào và bị phát hiện là phụ nữ. Tướng Sheridan hay tin đó bèn ra lệnh cho họ phải mặc váy rồi cung cấp phương tiện đưa họ trở về nhà, Quinn tự đưa ra cho mình một bằng chứng ngoại phạm mới, tự xưng là Ellie Reno, cháu gái của Jesse Reno. Cô trở về nhà, nhưng vào tháng 4 năm 1863, cô hay tin rằng anh trai mình đã hy sinh trong trận Shiloh. Quá đau buồn, cô bèn gia nhập quân đội dưới cái tên Frank Martin, sau cùng trở thành người phụng sự Tướng Jeremiah Boyle. Cô đã rất thành công khi đưa quân nổi dậy đến nhà tù Quân đội Liên bang ở Louisville, Kentucky và được thuê làm nhiệm vụ nhẹ tại doanh trại nhà tù. Cô gây ấn tượng với Tướng Boyle và trở thành nhân vật được yêu thích của Trung đoàn 25 Bộ binh Tình nguyện Michigan cũng đang làm việc ở đó. Thật không may, một người lính đã nhận ra cô là phụ nữ và cô lại một lần nữa được giải ngũ. Cô đã viết một lá thư cho Tổng thống Abraham Lincoln, cầu xin ông tha thứ và cho phép mình tiếp tục tham chiến. Quinn sau đó được gửi đến chỗ Tướng Ambrose Burnside, rồi được vợ của một viên sĩ quan chăm sóc và nhận lời mời làm việc tại bệnh viện Louisville. Vào khoảng thời gian này, Quinn được cho là đã lấy một "vị Đại úy đẹp trai và hào hoa" mang họ Steward, đã chết ngay sau cuộc hôn nhân của họ. Tháng 10 năm 1863, Quinn trở lại quân đội, một lần nữa thuộc quyền Trung đoàn 90 Bộ binh Illinois dưới cái tên Frank Miller. Cô bị quân Liên minh miền Nam bắt ở Alabama và buộc phải đi bộ đến trại tù ở Atlanta, Georgia. Cô cố gắng trốn thoát nhưng bị quân địch bắn vào bắp chân và bị bắt lại. Trong tù, người ta phát hiện ra giới tính thực của cô và cô được đưa vào phòng tại một bệnh viện địa phương. Vết thương của cô bị nhiễm trùng và cô nằm ốm liệt giường suốt gần hai tháng trời. Ngày 17 tháng 2 năm 1864, quân đội Liên minh miền Nam mang cô ra trao đổi làm tù binh cho Quân đội Liên bang miền Bắc. Cô ở lại bệnh viện Nashville cho đến khi chân lành lại, sau đó nhận lương bổng và sinh sống ở Ohio cho đến khi chiến tranh kết thúc. Cuối đời Ngày 12 tháng 8 năm 1866, Quinn kết hôn với Mathew Angel, một người lính thuộc Đội Pháo binh 2 Hạng nặng Ohio. Họ có hai con gái, tên là Maggie và Mary. Quinn chết vì chứng phù nề vào ngày 8 tháng 6 năm 1872, ở tuổi 25. Ngoại hình Một phóng viên của tạp chí Louisville Journal từng mô tả Quinn là "Người nhỏ bé, với mái tóc màu nâu vàng, đôi mắt xanh và nước da rám nắng". Tướng Sheridan nói rằng cô ấy "thô lỗ và nam tính, với những đường nét to lớn...Cô ấy có thể dễ dàng được coi là một người đàn ông". Tham khảo Đọc thêm Melinda Cordell (2016). Courageous Women of the Civil War. Chicago Review Press. Blanton, DeAnne (2002). They Fought Like Demons: Women Soldiers in the American Civil War. Vintage Books. Không rõ năm sinh Mất năm 1872 Người Ireland di cư tới Hoa Kỳ Người lính Quân đội Liên bang Hoa Kỳ Tù binh chiến tranh trong Nội chiến Hoa Kỳ Người phụ nữ mặc đồ khác giới trong Nội chiến Hoa Kỳ
19857912
https://vi.wikipedia.org/wiki/GPT-3
GPT-3
Generative Pre-trained Transformer 3 (GPT-3) là một mô hình ngôn ngữ lớn được phát hành bởi OpenAI vào năm 2020. Giống như phiên bản tiền nhiệm của nó, GPT-2, đây là một mô hình transformer chỉ chứa bộ giải mã của mạng nơ-ron sâu, nó vượt trội hơn các kiến trúc dựa trên hồi quy và tích chập bằng kỹ thuật được gọi là ("cơ chế chú ý" hay "attention"). Cơ chế chú ý này cho phép mô hình tập trung lựa chọn vào các phân đoạn văn bản đầu vào mà nó dự đoán là liên quan nhất. Nó sử dụng ngữ cảnh dài 2048-token, độ chính xác float16 (16-bit) và 175 tỷ tham số chưa từng có trước đó, yêu cầu 350GB dung lượng lưu trữ vì mỗi tham số chiếm 2 byte không gian, và đã thể hiện khả năng học "zero-shot" và "few-shot" tốt trên nhiều nhiệm vụ. Vào ngày 22 tháng 9 năm 2020, Microsoft thông báo rằng họ đã đạt được giấy phép độc quyền GPT-3. Người dùng khác vẫn có thể nhận đầu ra từ API công cộng của nó, nhưng chỉ Microsoft mới có quyền truy cập vào mô hình cơ bản. Tham khảo OpenAI
19857914
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202019%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20Nam
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 – Giải đấu Nam
Giải đấu nam khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 là giải đấu thứ 14 của nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ. Giải đấu diễn ra trong khoảng thời gian 12 ngày bắt đầu từ ngày 30 tháng 7 và kết thúc giải đấu bằng trận chung kết vào ngày 10 tháng 8. Đội tuyển giành được chiến thắng tại giải đấu này đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 ở Tokyo, Nhật Bản. Vòng loại Tổng cộng có tám đội vượt qua vòng loại để tranh tài tại giải đấu. Với tư cách là nước chủ nhà, Peru tự động vượt qua vòng loại và tham dự giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2018 và Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2018 cũng vượt qua vòng loại. Hai đội đứng đầu chưa đủ điều kiện tham dự Cúp Liên châu Mỹ 2017 (sau khi tính đến kết quả của hai giải đấu trên) cũng vượt qua vòng loại. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn chưa vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp giữa hai quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Nếu cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp sẽ không còn cần thiết và đội xếp thứ ba tại mỗi Cúp Liên châu Mỹ sẽ vượt qua vòng loại. Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ (PAHF) đã chính thức công bố các đội vượt qua vòng loại vào ngày 10 tháng 9 năm 2018. Các đội vượt qua vòng loại Đội hình Kết quả Lịch trình thi đấu chính thức được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 2019. Tất cả thời gian đều là giờ địa phương (UTC−5). Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân loại Sơ đồ Tứ kết Phân loại thứ hạng năm đến tám Cross-overs Thứ hạng bảy và tám Thứ hạng năm và sáu Bán kết Tranh huy chương đồng Tranh huy chương vàng Thống kê Bảng xếp hạng cuối cùng Cầu thủ ghi bàn Tham khảo Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 – Giải đấu Nam Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 – Vòng loại Nam Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè – Vòng loại Nam khu vực Liên châu Mỹ
19857924
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202019%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%99i%20h%C3%ACnh%20Nam
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 – Đội hình Nam
Bài viết này trình bày danh sách của tất cả các đội tuyển tham gia tại giải khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 ở Lima, Peru. Danh sách của một đội có thể có tối đa 16 vận động viên. Tuổi và số lần khoác áo đội tuyển tính đến ngày 29 tháng 7 năm 2019 và các câu lạc bộ mà họ thi đấu trong mùa giải 2018–19. Bảng A Argentina Argentina đã công bố đội hình của họ vào ngày 12 tháng 7 năm 2019. Huấn luyện viên trưởng: Germán Orozco Chile Cuba Trinidad và Tobago Bảng B Canada Canada đã công bố đội hình của họ vào ngày 17 tháng 6 năm 2019. Huấn luyện viên trưởng: Paul Bundy Mexico Peru Hoa Kỳ Hoa Kỳ đã công bố đội hình của họ vào ngày 9 tháng 7 năm 2019. Huấn luyện viên trưởng: Rutger Wiese Tham khảo Đội hình
19857938
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Thresher%20%28SS-200%29
USS Thresher (SS-200)
là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá nhám đuôi dài (cá mập cáo). Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười lăm chuyến tuần tra và đánh chìm 17 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 66.172 tấn, xếp hạng mười ba về số lượng tàu và thứ mười tám về tải trọng trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Con tàu được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu vào đầu năm 1945 để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó xuất biên chế năm 1946, và bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Với danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng mười lăm Ngôi sao Chiến trận được tặng thưởng do thành tích chiến đấu, Thresher là tàu ngầm được tặng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II, và là một trong những tàu chiến được tặng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ General Motors-Winton dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên vào đầu năm 1943, Thresher được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch khi đại tu. Thresher được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 27 tháng 5, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 3, 1940, được đỡ đầu bởi bà Margaret Cox Jones, phu nhân Chuẩn đô đốc Claud Ashton Jones, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 8, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân William Lovett Anderson. Lịch sử hoạt động 1940 - 1941 Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện, Thresher khởi hành từ New London, Connecticut vào ngày 25 tháng 10, 1940 để tiếp tục chạy thử máy ngoài khơi Gravesend, New York. Nó tiếp tục hoạt động tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ, rồi lên đường vào ngày 1 tháng 5, 1941 để đi sang vùng biển Caribe, băng qua kênh đào Panama vào ngày 9 tháng 5 để đi sang Thái Bình Dương. Sau chặng dừng tại San Diego, California cho đến ngày 21 tháng 5, nó đi đến Trân Châu Cảng, Hawaii vào ngày 31 tháng 5. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động tại vùng biển quần đảo Hawaii trong suốt mùa Thu năm đó, khi căng thẳng trong quan hệ với Nhật Bản tiếp tục leo thang. Thresher cùng với tàu ngầm chị em rời Căn cứ Tàu ngầm Trân Châu Cảng vào ngày 31 tháng 10 cho một chuyến tuần tra mô phỏng chiến tranh tại khu vực phía Bắc đảo Midway, cả hai đều mang theo ngư lôi tác chiến. Tautog quay về căn cứ trước, và Thresher đang ở gần quần đảo Hawaii vào ngày 7 tháng 12, sắp kết thúc chuyến tuần tra. Nó được tàu khu trục hộ tống đi vào vùng biển Hawaii để không bị nhận diện nhầm là tàu ngầm đối phương, và đến 08 giờ 10 phút đã được tin tức về việc Trân Châu Cảng đang bị máy bay của Hải quân Nhật tấn công. Chuyến tuần tra thứ nhất Trong khi Litchfield lập tức gia nhập các lực lượng hạng nhẹ khác đang rời cảng, Thresher thực hiện chuyến tuần tra chiến tranh đầu tiên. Tuy nhiên chiếc tàu khu trục được lệnh quay trở lại hộ tống chiếc tàu ngầm, và một điểm hẹn được xác lập giữa hai chiếc tàu chiến. Đúng lúc tại điểm hẹn, Thresher phát hiện Litchfield qua kính tiềm vọng; nhưng khi tháp chỉ huy nhô lên mặt nước, nó được đón tiếp bằng hải pháo từ chiếc tàu khu trục, nên buộc phải lặn xuống né tránh. Chiếc tàu ngầm tìm cách vào cảng trong ngày 8 tháng 12, nhưng lại bị một máy bay tuần tra ném bom, cho đến khi chiếc tàu tiếp liệu thủy phi cơ Thornton (AVD-11) đi đến hướng dẫn nó vào cảng. 1942 Chuyến tuần tra thứ hai Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 12, 1941 cho chuyến tuần tra tiếp theo, hướng sang khu vực các quần đảo Marshall và Mariana. Nó trinh sát các đảo san hô Majuro, Arno và Mili từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 1, 1942, rồi chuyển đến vùng biển Guam vào sáng sớm ngày 4 tháng 2. Phát hiện một tàu buôn tại vị trí về phía Bắc Agana Harbor, nó phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công, và mục tiêu bị đánh trúng và chết đứng giữa biển. Tuy nhiên một loạt ngư lôi phóng bồi thêm đều bị trượt, và cho dù Thresher tự nhận đã đánh chìm mục tiêu, tài liệu thu được của phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận thành tích này. Trên đường quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 2, một máy bay tuần tra hải quân quá hăng hái đã tấn công Thresher nhưng không gây hư hại gì, và nó an toàn quay về cảng vào ngày 26 tháng 2. Chuyến tuần tra thứ ba Sau khi được tái trang bị, Thresher lên đường vào ngày 23 tháng 3 cho chuyến tuần tra gần các đảo chính quốc Nhật Bản, nơi nó thu thập thông tin thời tiết ngoài khơi Honshū cho Lực lượng Đặc nhiệm 16 dưới quyền Đô đốc William Halsey, bao gồm các tàu sân bay và , đang tiếp cận Nhật Bản. Trên sàn đáp của Hornet là 16 máy bay ném bom tầm trung B-25 Mitchell Không lực dưới quyền chỉ huy của Trung tá James H. Doolittle, dự định sẽ ném bom xuống Tokyo vào ngày 18 tháng 4. Nhận được thông tin tình báo về sự hiện diện của bốn tàu ngầm Nhật hoạt động ngoài khơi vịnh Tokyo, Thresher bị một tàu ngầm đối phương phát hiện và tấn công nhưng không bị hư hại. Vào sáng ngày 10 tháng 4, nó trông thấy một tàu buôn lớn, nhưng một loạt ba quả ngư lôi phóng ra đều bị trượt và đối thủ chạy thoát trong màn sương mù. Khi mục tiêu xuất hiện trở lại, chiếc tàu ngầm không thể đi vào vị trí tấn công. Một mục tiêu thứ hai xuất hiện cùng trong ngày hôm đó, và một quả ngư lôi trúng đích đã khiến tàu chở hàng Sado Maru (3.039 tấn) đắm chỉ trong vòng ba phút ngoài khơi Yokohama, Honshū, tại tọa độ . Ba hay bốn tàu tuần tra đối phương đã thả mìn sâu phản công, khiến chiếc tàu ngầm mất kiểm soát. Nó chìm đến độ sâu , quá giới hạn lặn thử nghiệm, trước khi lấy lại được kiểm soát. Tuy nhiên nó tiếp tục ở lại khu vực tuần tra để hỗ trợ cho hoạt động của Đô đốc Halsey. Đang khi di chuyển trên mặt nước để nạp điện ắc-quy vào ngày 13 tháng 4, một cơn sóng lớn đã ập qua tháp chỉ huy của Thresher. Nước tràn qua cửa sập đang mở vào bên trong tàu đã gây chập mạch nhiều mạch điện, tạo ra nguy cơ rò rỉ khí chlorine. Phản ứng thông minh và kịp thời của thủy thủ đoàn đã ngăn chặn được tai họa; các hư hại được sửa chữa và nước được bơm ra khỏi tàu. Sang ngày hôm sau, nó rời khu vực tuần tra để tập trung vào việc thu thập thông tin thời tiết, cũng như tìm kiếm tàu bè đối phương có thể báo động cuộc không kích. Chiếc tàu ngầm tách khỏi nhiệm vụ này vào ngày 16 tháng 4, và sau khi né tránh được hai máy bay tuần tra đối phương, đã về đến Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 4. Chuyến tuần tra thứ tư Lên đường vào ngày 26 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ tư, Thresher hướng sang vùng biển giữa Palau và quần đảo Marshall. Vào ngày 6 tháng 7, nó phóng ngư lôi đánh trúng một tàu chở dầu ngoài khơi eo biển Enijun. Hai tàu hộ tống và máy bay đối phương đã truy đuổi và phản công trong suốt ba giờ bằng mìn sâu, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được. Ba ngày sau, tại vị trí về phía Tây Nam đảo san hô Kwajalein thuộc quần đảo Marshall, lúc 06 giờ 30 phút, nó phóng ngư lôi đánh trúng hai quả vào tàu tiếp liệu khu trục Shinsho Maru (4.836 tấn), khiến mục tiêu nổ tung và đắm lúc khoảng 08 giờ 00 tại tọa độ . Thresher rút lui để đề phòng đối phương phản công. Một giờ sau đó hai quả mìn sâu được thả xuống, rồi mười phút sau đó đối phương thả một neo móc lớn tìm cách bắt giữ con tàu. Chiếc tàu ngầm bẻ hết lái và lặn hết tốc độ suốt mười phút để thoát khỏi neo móc. Sau đó khi một quả mìn sâu nổ gần tháp chỉ huy, Thresher tiếp tục lặn xuống sâu hơn và tách khỏi đối phương với khoảng 30 quả mìn tiếp tục được thả xuống. Bị rung động mạnh nhưng hư hại không nghiêm trọng, nó tiến hành các sửa chữa nhỏ đang khi trên đường hướng đến Truk để trinh sát căn cứ hải quân chủ lực này của đối phương. Sau khi bắn trượt một tàu buôn bằng ngư lôi trong đêm 20 tháng 7, Thresher trồi lên mặt nước giữa một cơn mưa giông ngay trước lúc bình minh. Sonar con tàu dò được tiếng chân vịt quay đang tiếp cận, và sau đó một tàu tuần tra đối phương xuất hiện. Thay vì húc thẳng vào chiếc tàu ngầm, tàu đối phương lại bẻ hết lái sang mạn phải để chạy song song với chiếc tàu ngầm ở khoảng cách và bắn hải pháo. Thresher lặn xuống né tránh hỏa lực không chính xác của đối thủ. Trên đường đi đến Palau, nó đụng độ một tàu Q-ship đối phương ngoài khơi đảo Ambon, Đông Ấn thuộc Hà Lan, nhưng hai quả ngư lôi nó nhắm vào đối thủ đã trúng đích mà không kích nổ. Chiếc Q-ship phản công với một loạt tám quả mìn sâu được thả xuống trước khi bỏ đi. Do đã được điều động về Lực lượng Tàu ngầm Tây Nam Thái Bình Dương, Thresher quay về căn cứ mới tại Fremantle, Australia để kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 15 tháng 8. Chuyến tuần tra thứ năm Sau khi được tái trang bị, Thresher mang theo thủy lôi khi rời Fremantle vào ngày 15 tháng 9, hướng sang khu vực vịnh Thái Lan cho chuyến tuần tra thứ năm. Nó đã phóng hai quả ngư lôi nhắm vào hai tàu buôn tại vị trí về phía Bắc eo biển Lombok vào ngày 19 tháng 9, nhưng không thể xác định kết quả. Đến đêm 25 tháng 9, quả ngư lôi nó phóng ra tấn công đi bên dưới một mục tiêu lớn di chuyển với tốc độ nhanh trong biển Sulu. Sau đó trong vịnh Thái Lan, nó rải một trong những bãi mìn đầu tiên được rải bởi tàu ngầm Hoa Kỳ tại Mặt trận Thái Bình Dương. Đang khi trinh sát dọc bờ biển Balikpapan, Borneo và Celebes, nó phát hiện một tàu chở dầu bị mắc cạn tại một dãi đá ngầm trong biển Java. Nó trồi lên mặt nước để phá hủy mục tiêu bằng hải pháo trước khi quay trở về vào ngày 12 tháng 11. Chuyến tuần tra thứ sáu Khởi hành từ Fremantle vào ngày 16 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ sáu, Thresher đi đến ngoài khơi Soerabaya, Java vào ngày 25 tháng 12. Nó đánh chặn một đoàn tàu vận tải được hai tàu khu trục, nhiều tàu săn ngầm và hai máy bay hộ tống bảo vệ. Đi vòng qua các tàu hộ tống, nó phóng năm quả ngư lôi nhắm vào ba chiếc tàu buôn dẫn đầu, ghi nhận được hai tiếng nổ. Khi chiếc tàu ngầm quay trở lại độ sâu kính tiềm vọng để quan sát, một tàu buôn bị ngập nước phía mũi tàu và một chiếc khác bị chết đứng giữa biển và đang bốc cháy. Nó lại bắt gặp một tàu sân bay đối phương vào đêm hôm sau, nhưng bị các tàu hộ tống truy lùng trong hơn một giờ nên mục tiêu mất dấu vết. Trong đêm 29 tháng 12, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân William J. Millican, Thresher bắt gặp một tàu buôn khoảng 3.000 tấn. Trước nữa đêm, nó tấn công bằng một loạt ngư lôi, nhưng tất cả đều đi sâu bên dưới mục tiêu. Chiếc tàu ngầm kiên nhẫn đợi đến khi trăng mọc, trồi lên mặt nước và tấn công bằng hải pháo , ghi được tám phát trúng đích và có thể đã đánh chìm mục tiêu tại vùng nước nông. 1943 Chuyến tuần tra thứ bảy Sau khi quay trở về Fremantle vào ngày 10 tháng 1, 1943 để tái trang bị, Thresher trở ra khơi vào ngày 25 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ bảy, mang theo ít hơn bốn quả ngư lôi so với thường lệ. Lúc 11 giờ 00 ngày 14 tháng 2, nó bắt gặp một tàu ngầm lớp I-65 Nhật Bản về phía Đông đảo Thwartway trong eo biển Sunda. Trong số hai quả ngư lôi phóng ra nhắm vào I-162, một quả trúng đích nhưng tịt ngòi còn quả thứ hai kích nổ dưới đáy biển. I-162 đổi hướng lên phía Bắc và khai hỏa hải pháo trên boong tàu để phản công trước khi đi khuất khỏi đường chân trời. Đi đến khu vực biển Flores, Thresher đánh chặn một đoàn tàu vận tải ba chiếc được hai tàu săn ngầm hộ tống vào ngày 21 tháng 2 ở phía Bắc đảo Sumbawa, và hai quả ngư lôi đã đánh trúng một tàu vận tải lúc 15 giờ 03 phút. Chiếc tàu ngầm sau đó phải né tránh 13 quả mìn sâu được thả xuống phản công, trước khi quay trở lại độ sâu kính tiềm vọng khoảng một giờ sau đó để xem xét kết quả. Mục tiêu của nó chết đứng giữa biển trong khi những sà lan đang vận chuyển binh lính sang các tàu khác. Trong khi các tàu hộ tống lùng sục khu vực lân cận, Thresher phóng ngư lôi tấn công tàu vận tải thứ hai, nghe được hai tiếng nổ trước khi lại lặn xuống né tránh phản công. Sang ngày hôm sau, nó phóng bốn quả ngư lôi để kết liễu mục tiêu thứ nhất, vốn đã bị bỏ lại, và tàu vận tải Kuwayama Maru (5.724 tấn) đã đắm lúc 14 giờ 17 phút tại tọa độ , 12 binh lính cùng một thủy thủ đã tử trận. Tại eo biển Macassar, Đông Ấn thuộc Hà Lan, Thresher phát hiện và tấn công một tàu chở dầu và một tàu buôn vào ngày 2 tháng 3. Một quả ngư lôi trúng đích đã đánh chìm tàu chở dầu Toen Maru (5.232 tấn) tại tọa độ ; 28 thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận cùng con tàu. Nó phóng nốt quả ngư lôi cuối cùng nhắm vào chiếc tàu buôn, nhưng mục tiêu phát hiện kịp thời và cơ động né tránh. Sau đó một tàu hộ tống đối phương xuất hiện buộc chiếc tàu ngầm phải lẫn tránh, và chiếc tàu buôn đối phương chạy thoát. Thresher kết thúc chuyến tuần tra khi quay về Fremantle vào ngày 10 tháng 3. Khi Thiếu tá Hạm trưởng Millican thẳng thừng phê phán chất lượng của ngư lôi, nhất là thất bại không đánh chìm được tàu ngầm đối phương, Đô đốc Ralph W. Christie đã bác bỏ điều này và cánh chức Millican. Chuyến tuần tra thứ tám và thứ chín Thresher, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng mới, Thiếu tá Hải quân Harry Hull, chuyến tuần tra thứ tám, kéo dài từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 23 tháng 5 diễn ra mà không có sự kiện nào đặc biệt. Trong chuyến tuần tra tiếp theo ngoài khơi Balikpapan, Borneo, nó phát hiện một đoàn tàu vận tải ba chiếc được hộ tống duy nhất bởi tàu khu trục Hokaze trong đêm 30 tháng 6. Nó tấn công với một loạt ba quả ngư lôi, và một quả đánh trúng gây hư hại đáng kể cho mũi tàu Hokaze. Sang sáng sớm ngày hôm sau, nó tiếp tục tấn công, đánh trúng làm cháy một tàu chở dầu, và đánh chìm tàu chở hành khách-hàng hóa Yoneyama Maru (5.274 tấn) trong biển Celebes, tại tọa độ . Đến sáng ngày 5 tháng 7, Thresher bắt đầu theo dõi một tàu chở dầu dọc bờ biển Celebes, chờ đợi cho đến khi các tàu hộ tống tách ra xa trước khi phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công. Cho dù trúng một quả ngư lôi vào mũi tàu, tàu chở dầu đối phương vẫn nổi và chống trả bằng hải pháo trong khi rút lui với tốc độ cao. Bốn ngày sau đó, nó đi đến ngoài khơi Catmou Point, đảo Negros, Philippines, nơi nó chuyển giao tiếp liệu cùng 40.000 viên đạn cho lực lượng du kích Phlippines, đồng thời tiếp nhận tin tức tình báo. Nó tiếp tục tuần tra vào nữa đêm ngày 9 tháng 7, rồi rời vùng biển Philippines để quay trở về Trân Châu Cảng ngang qua căn cứ Midway. Con tàu tiếp tục đi về vùng bờ Tây để được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island tại Vallejo, California, khi khẩu hải pháo trên boong được nâng cấp lên cỡ . Chuyến tuần tra thứ mười Tiếp tục dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Harry Hull, Thresher rời vùng bờ Tây vào ngày 8 tháng 10, đi đến Trân Châu Cảng một tuần sau đó. Nó lên đường cho chuyến tuần tra thứ mười vào ngày 1 tháng 11 tại vùng biển phía Bắc quần đảo Caroline. Tại vị trí khoảng về phía Đông Bắc Truk, nó bắt đầu theo dõi một đoàn tàu vận tải năm chiếc vào sáng ngày 12 tháng 11, lách qua hai tàu hộ tống để đi đến vị trí tấn công. Lúc 22 giờ 00, nó phóng một loạt ba quả ngư lôi, đánh chìm tàu vận tải Muko Maru (4.862 tấn) tại tọa độ ; 18 thủy thủ đã tử trận cùng con tàu. Một loạt ba quả ngư lôi phóng ra tiếp theo bị trượt, và các tàu hộ tống phản công với 20 quả mìn sâu được thả xuống. 1944 Chuyến tuần tra thứ mười một Dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng mới, Thiếu tá Hải quân Duncan C. MacMillan, Thresher thực hiện chuyến tuần tra thứ mười một tại biển Đông về phía Nam Đài Loan. Đang khi đi trên mặt nước vào ngày 10 tháng 1, 1944, nó phát hiện một tàu đánh cá 150 tấn và đã đánh chìm mục tiêu bằng pháo 5-inch, 20 mm và súng máy .50 cal (12,7 mm). Sau đó nó băng qua eo biển Luzon giữa đảo Batan và Luzon, Philippines. Lúc 11 giờ 43 phút ngày 15 tháng 1, nó trồi lên mặt nước và phát hiện một tàu sân bay được một tàu khu trục hộ tống, rồi lặn xuống độ sâu kính tiềm vọng kịp thời khi hai tàu khu trục khác đang nhanh chóng áp sát nó. Thresher phải lặn sâu trong chế độ im lặng khi đối phương thả bốn quả mìn sâu tấn công, nhưng đều ở khoảng cách xa. Sau khi thả thêm khoảng 10 đến 15 quả mìn nữa trong hai giờ tiếp theo, đối phương từ bỏ việc truy lùng. Trở lên độ sâu kính tiềm vọng lúc 17 giờ 00, tại vị trí khoảng phía Bắc Luzon, Thresher nhanh chóng phát hiện một đoàn tàu bốn chiếc ở khoảng cách chỉ với một tàu săn ngầm hộ tống. Nó trồi lên mặt nước lúc 19 giờ 11 phút, theo dõi mục tiêu qua radar, và cơ động vào vị trí để tấn công. Khi đoàn tàu đối phương đổi hướng lúc 21 giờ 55 phút tạo ra cơ hội tốt, nó phóng một loạt bốn quả ngư lôi từ phía đuôi lúc 22 giờ 07 phút ở khoảng cách . Hai quả đã đánh trúng tàu buôn Tatsuno Maru (6.960 tấn) phía giữa tàu khiến nó nổ tung, vỡ làm đôi và chìm tại tọa độ ; tám hành khách và 12 thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu. Thresher sau đó ngắm qua radar để phóng tiếp ba quả ngư lôi phía mũi nhắm vào mục tiêu thứ hai lúc 22 giờ 50 phút, và hai quả trúng đích vào đuôi chiếc tàu chở hàng Toho Maru (4.092 tấn) khiến nó bốc cháy và đắm tại tọa độ ; 12 pháo thủ cùng 35 thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu. Chiếc tàu buôn thứ ba bắt đầu nả pháo vào chiếc tàu ngầm, lúc này đang đi song song bên mạn trái ở khoảng cách , nên Thresher buộc phải lặn xuống ẩn nấp. Đối phương thả khoảng 20 quả mìn sâu trong vòng một giờ tiếp theo trước khi bỏ đi. Tiếp tục tuần tra dọc tuyến hàng hải giữa Singapore và Nhật Bản, vào ngày 26 tháng 1, Thresher phát hiện qua radar một đoàn tàu vận tải, rồi nhìn thấy hai mục tiêu trong bầu trời đêm. Đến 00 giờ 11 phút ngày 27 tháng 1, tại vị trí về phía Tây Nam Cao Hùng, nó phóng một loạt ba quả ngư lôi trúng đích, đánh chìm tàu chở hàng Kikuzuki Maru (1.266 tấn) tại tọa độ , mười thủy thủ cùng nhiều hành khách đã thiệt mạng cùng con tàu. Loạt ngư lôi thứ hai phóng ra tiếp tục trúng đích, khiến tàu chở hàng Kosei Maru (2.205 tấn) đắm sau đó lúc 01 giờ 25 phút tại tọa độ ; 19 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng. Một mục tiêu thứ ba chạy thoát về phía Nam hết tốc độ đồng thời bắn hải pháo về phía chiếc tàu ngầm. Thresher theo dõi mục tiêu còn lại trong suốt bốn giờ tiếp theo cho đến khi đi đến vị trí thuận lợi lúc 04 giờ 46 phút, khi nó phóng hết số ngư lôi còn lại và bắt đầu quay mũi rút lui. Một quả ngư lôi trúng đích khiến tàu đối phương chết đứng giữa biển, nhưng chấn động mạnh của vụ nổ cũng gây hư hại đáng kể cho Thresher khiến nó tạm thời không thể hoạt động. Khi lấy lại được sự kiểm soát con tàu, mục tiêu đã ở quá xa, và vì đang nằm trong tầm hoạt động của máy bay tuần tra đặt căn cứ trên bờ, có nguy cơ cao khi tiếp tục truy đuổi. Tàu săn ngầm đối phương cũng đến nơi, tiến hành càn quét khu vực và thả mìn sâu tấn công trong suốt ba giờ tiếp theo. Trong các ngày 28 và 29 tháng 1, Thresher tuần tra trên tuyến hàng hải Đài Loan-Palau trong eo biển Luzon trước khi quay trở về căn cứ Trân Châu Cảng ngang qua Midway, đến nơi vào ngày 18 tháng 2. Thiếu tá Hải quân Duncan C. MacMillan, hạm trưởng của Thresher được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân do hoạt động tích cực trong chuyến tuần tra này. Chuyến tuần tra thứ mười hai Trong chuyến tuần tra thứ mười hai từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 8 tháng 5, Thresher xuất phát từ Trân Châu Cảng để đi đến khu vực trung tâm quần đảo Caroline. Nó làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ cho chiến dịch không kích của các tàu sân bay xuống Truk, rồi bắn phá Oroluk vào ngày 11 tháng 4, cũng như trinh sát hình ảnh các hòn đảo trong nhóm đảo này. Trong khi chiến dịch không kích diễn ra tại Truk, nó phải ẩn nấp khi nhiều máy bay tuần tra đối phương hoạt động. Con tàu cũng bắt gặp hai tàu đối phương nhưng không thể tấn công, và đã kết thúc chuyến tuần tra tại Trân Châu Cảng. Chuyến tuần tra thứ mười ba Lên đường vào ngày 14 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ mười ba, Thresher tiếp tục dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá MacMillan. Vào ngày 25 tháng 6, nó gia nhập một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn còn bao gồm các tàu ngầm , và . "Bầy sói" biệt danh "Mickey Finns" này được đặt dưới quyền chỉ huy chung của Đại tá Hải quân William V. "Mickey" O'Regan bên trên soái hạm Guardfish. Họ được thông tin về một máy bay bị rơi xuống biển, nên đổi hướng để điều tra, nhưng khi đến nơi vào ngày 27 tháng 6, họ chỉ tìm thấy thùng nhiên liệu phụ được phóng bỏ mà không có dấu vết của phi công hay máy bay. Trong những ngày tiếp theo, họ đụng độ với nhiều máy bay nhưng chỉ tìm thấy vài thuyền đánh cá và tàu tuần tra nhỏ. Vào ngày 11 tháng 7, Thresher phát hiện qua radar một đoàn tàu vận tải sáu chiếc đang di chuyển trên tuyến hành hải Đài Loan-Luzon. Nó đổi hướng để đánh chặn, đồng thời thông báo vị trí mục tiêu cho "Bầy sói". Chỉ có Guardfish và Apogon nhận được thông tin, còn Piranha không bắt liên lạc. Thresher đi đến một vị trí phía sau đoàn tàu đối phương để theo dõi và tấn công những tàu bị rớt lại, trong khi Guardfish tấn công bên mạn trái và Apogon bên mạn phải. Tuy nhiên, một tàu hộ tống Nhật Bản đã phát hiện và truy đuổi Thresher, không cho nó có cơ hội tấn công; Piranha đánh chìm tàu chở hành khách hàng hóa Nichiran Maru (6.504 tấn), còn Apogon bị húc phải nên phải rút lui về căn cứ để sửa chữa. Phần còn lại của "Bầy sói" tập họp trở lại vào ngày 13 tháng 7 để tiếp tục cuộc săn đuổi, rồi đến 16 giờ 00 ngày 16 tháng 7, Thresher phát hiện mục tiêu. Sau hai giờ theo đuổi, nó xác định một đoàn bao gồm một tàu chở dầu lớn, ba tàu buôn và hai tàu hộ tống. Đến 23 giờ 29 phút, khi khoảng cách với một tàu hộ tống rút xuống còn , nó phóng ba quả ngư lôi tấn công tàu hộ tống dẫn đầu và ba quả khác nhắm vào chiếc tàu buôn thứ nhất. Ngay sau đó nó quay mũi để phóng nốt bốn quả ngư lôi phía đuôi vào chiếc tàu buôn thứ hai, rồi nghe thấy bốn vụ nổ, và ngay tiếp theo là sáu vụ nổ khác. Thresher nạp lại các ống phóng ngư lôi lúc nữa đêm, rồi quay trở lại tiếp tục tấn công các mục tiêu giờ đây chỉ còn một tàu chở dầu, một tàu buôn và một tàu hộ tống. Lúc 01 giờ 18 phút, nó phóng hai quả vào chiếc tàu hộ tống và ba quả vào chiếc tàu buôn, rồi bốn quả phía đuôi vào chiếc tàu chở dầu, nghe thấy ít nhất sáu vụ nổ. Tàu hộ tống đối phương bắt đầu thả mìn sâu phản công, và Thresher qua kính tiềm vọng thấy các mục tiêu vẫn tiếp tục nổi, nên nạp lại ngư lôi lúc 01 giờ 22 phút để tiếp tục tấn công. Phóng hết số ngư lôi còn lại vào các mục tiêu, nó nghe thấy hai tiếng nổ lúc 02 giờ 46 phút và cho rằng chiếc tàu chở hàng đắm ngay lập tức. Một phút sau đó, hai quả ngư lôi đánh trúng chiếc tàu chở dầu khiến mục tiêu nổ tung và đắm trong vòng 15 giây. Trong khi không thể chắc chắn chiếc tàu hộ tống cuối cùng đã bị đánh chìm, rất có thể nó đã hư hại nặng do tác động của hai quả ngư lôi đánh trúng. Tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, Thresher quay về Midway để kết thúc chuyến tuần tra. Nó tự nhận đã đánh chìm cả đoàn tàu vận tải, nhưng xác minh sau chiến tranh chỉ công nhận việc đánh chìm hai tàu chở hàng Sainei Maru (4.916 tấn) và Shozan Maru (2.838 tấn), mà không có tàu hộ tống nào. Dù sao, Thresher cũng được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cho chuyến tuần tra này, và Thiếu tá MacMillan nhận được Huân chương Chữ thập Hải quân thứ hai. Chuyến tuần tra thứ mười bốn Sau khi hoàn tất việc sửa chữa và tái trang bị, Thresher, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng mới, Thiếu tá Hải quân John R. Middleton Jr., khởi hành từ Midway vào ngày 23 tháng 8 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh. Sáu ngày sau đó, lúc đi trên mặt biển trên đường hướng sang khu vực biển Hoa Đông và Hoàng Hải, nó gặp phải thời tiết xấu khi biển động mạnh, khiến con tàu tròng trành đến 53 độ và đối đầu những con sóng cao đến . Khi vòng qua phía cực Nam đảo Kyūshū, nó nhìn thấy nhiều tàu nhỏ trước khi đụng độ một tàu quét mìn và hai tàu săn ngầm vào ngày 10 tháng 9, nó nhanh chóng rời khu vực này để đi đến khu vực tuần tra được chỉ định. Trong ngày 13 tháng 9, chiếc tàu ngầm không bắt kịp mục tiêu là một tàu chở dầu lớn ở khoảng cách xa, rồi sau đó tấn công một tàu buôn với bốn quả ngư lôi nhưng không thể đánh chìm mục tiêu; một máy bay tuần tra đối phương xuất hiện khiến nó không thể tiếp tục tấn công. Lúc 15 giờ 31 phút ngày 18 tháng 9, nó phát hiện một mục tiêu và bắt đầu theo dõi cho đến 19 giờ 32 phút, khi nó trồi lên mặt nước và tiếp tục theo dõi qua radar, phát hiện thêm một tàu hộ tống. Sau khi cơ động vào trị trí phù hợp bên mạn trái trước mũi, lúc 21 giờ 00, nó phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công đón đầu, nhưng đối phương đổi hướng đi nên đều bị trượt rất xa. Vẫn chưa bị phát hiện, Thresher quay mũi và phóng tiếp bốn quả ngư lôi phía đuôi từ khoảng cách . Hai quả trúng đích đã khiến tàu chở hàng Gyōkū Maru (6.854 tấn) vỡ làm đôi và đắm tại tọa độ ; 643 binh lính cùng 39 thủy thủ đã tử trận cùng con tàu. Thresher sau đó rút lui hết tốc độ khi nó phát hiện thêm ba tàu hộ tống đối phương đang áp sát. Nó nạp lại các ống phóng ngư lôi rồi tấn công những kẻ truy đuổi, nhưng đều bị trượt. Nó lẫn tránh các đối thủ và chuyển đến vùng biển ngoài khơi Mãn Châu, nhưng chỉ tìm thấy những tàu đánh cá cho đến ngày 26 tháng 8, khi bắt gặp một tàu chở hàng lớn lúc 09 giờ 44 phút. Chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước lúc 13 giờ 15 để tiếp cận mục tiêu, nhưng một thủy phi cơ tuần tra xuất hiện một giờ sau đó buộc nó phải lặn khẩn cấp, rồi một quả mìn sâu đã được ném xuống gần con tàu sau đó. Nó ở lại dưới nước đến 16 giờ 00 và bắt gặp lại mục tiêu lúc 18 giờ 15 phút đang hướng đến đảo Daisei Gunto. Nó phóng hai quả ngư lôi tấn, và trúng đích cả hai, đánh chìm tàu chở hàng Nissei Maru (1.468 tấn) tại tọa độ . Sang ngày hôm sau 26 tháng 9, Thresher tấn công và đánh chìm tàu chở hàng Koetsu Maru (873 tấn) tại tọa độ . Tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, chiếc tàu ngầm quay trở về căn cứ. Trên đường đi vào ngày 3 tháng 10, nó phát hiện và theo dõi một tàu đánh cá nhỏ, rồi trồi lên mặt nước sau hoàng hôn để bắn phá mục tiêu bằng hải pháo 5-inch. Tuy nhiên đối phương chống trả bằng hỏa lực mạnh, buộc chiếc tàu ngầm phải rút lui, và từ bỏ cuộc tấn công do không thấy rõ mục tiêu do trời tối. Sau khi được tiếp nhiên liệu tại Midway vào ngày 8 tháng 10, nó tiếp tục hành trình hướng về quần đảo Hawaii, và về đến Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 10, 1944. 1945 Chuyến tuần tra thứ mười lăm Sau một đợt tái trang bị kéo dài, Thresher lên đường vào ngày 31 tháng 1, 1945 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh. Tại khu vực quần đảo Mariana, nó tham gia thành phần một "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm , và . Sau khi ghé lại Saipan qua đêm 12-13 tháng 2, đơn vị tiếp tục hướng sang khu vực tuần tra phía Bắc Luzon. Thresher chỉ phát hiện được hai mục tiêu, nhưng không thể tấn công nục tiêu thứ nhất vì ở vùng nước nông, và mục tiêu thứ hai chạy thoát. Dù sao, con tàu cũng hoạt động tìm kiếm và giải cứu, đồng thời bắn phá Basco Harbor trên đảo Batan vào ngày 28 tháng 3. Trong giai đoạn sau của chuyến tuần tra, nó hoạt động phối hợp cùng Piranha và . 1945 - 1946 Rời khu vực tuần tra, Thresher được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm để sửa chữa những hư hại trước khi lên đường đi Oahu vào ngày 4 tháng 4. Về đến Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 4, nó được sửa chữa và tân trang trước khi đảm nhiệm vai trò mục tiêu huấn luyện mô phỏng tại các khu vực Hawaii và Eniwetok. Nó vẫn đang trong vai trò này khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Rời Eniwetok vào ngày 15 tháng 9, chiếc tàu ngầm về đến Trân Châu Cảng vào ngày 22 tháng 9, rồi lại lên đường bốn ngày sau đó và về đến cảng San Francisco, California vào ngày 4 tháng 10. Nó rời vùng bờ Tây vào ngày 31 tháng 10, băng qua kênh đào Panama vào ngày 10 tháng 11, và đi đến Portsmouth, New Hampshire vào ngày 18 tháng 11. Thresher được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 13 tháng 12, 1945, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Được dự định sẽ sử dụng trong Chiến dịch Crossroads, cuộc thử nghiệm bom nguyên tử tại đảo Bikini ở Thái Bình Dương, Thresher được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 6 tháng 2, 1946 và được sửa chữa. Tuy nhiên trong quá trình tân trang, hải quân phát hiện con tàu ở trong tình trạng vật chất kém đến mức không thể sửa chữa hiệu quả, nên công việc ngưng lại và chiếc tàu ngầm xuất biên chế lần sau cùng vào ngày 12 tháng 7, 1946. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 23 tháng 12, 1947, và con tàu bị bán cho Max Siegel tại Everett, Massachusetts để tháo dỡ vào ngày 18 tháng 3, 1948. Phần thưởng Thresher là tàu ngầm được tặng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II, và là một trong những tàu chiến được tặng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II. Nó được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng mười lăm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 17 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 66.172 tấn, xếp hạng mười ba về số lượng tàu và thứ mười tám về tải trọng trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-200 Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1941 Sự cố hàng hải năm 1942 Tàu thủy năm 1940
19857940
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Thresher
USS Thresher
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Thresher, theo tên họ Cá nhám đuôi dài (cá mập cáo): là một trong biên chế từ năm 1940 đến năm 1945 và trong năm 1946 là chiếc tàu ngầm dẫn đầu của hạ thủy năm 1960 và bị mất năm 1963 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857969
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20Li%C3%AAm
Vũ Liêm
Vũ Liêm (sinh năm 1984) là một nam biên kịch người Việt Nam. Anh là Phó giám đốc Điện ảnh Công an nhân dân. Anh được biết đến là tác giả kịch bản một số phim truyền hình như: Đi về phía mặt trời, Hành trình bí ẩn, Lời thì thầm từ quá khứ, Một thời ngang dọc, Mặt nạ gương, Hành trình công lý, Biệt dược đen và Đội điều tra số 7... Tiểu sử Vũ Liêm sinh năm 1984 tại Hà Nội, anh tốt nghiệp ngành biên kịch Điện ảnh tại Trường Đại học sân khấu Điện ảnh Hà nội năm 2006 và bắt đầu hoạt động sáng tác cho đến nay. Ngoài sáng tác kịch bản anh còn được biết đến với vai trò là Nhà sản xuất và đạo diễn các chương trình nghệ thuật và format truyền hình như Chân dung âm nhạc (VTC), Giọng ca vàng qua các thế hệ (ANTV) và Giai điệu bình yên (Bộ công an), Giải mã tâm lý tội phạm (ANTV) đồng thời hoạt động văn học nghệ thuật qua các truyện ngắn trên báo Văn nghệ công an. Vũ Liêm là tác giả tham gia viết các phần trong series Cảnh sát hình sự của Trung tâm sản xuất phim truyền hình Đài truyền hình Việt Nam từ khi còn rất trẻ với bộ phim Hành trình bí ẩn, các tác phẩm của anh đa phần đều xoay quanh cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong cuộc sống mà cụ thể là sự đối đầu quyết liệt giữa lực lượng Công an và tội phạm. Sau tác phẩm đầu tay, anh gây ấn tượng với hàng loạt bộ phim điển hình như "Mặt nạ gương" công chiếu năm 2021. Điều anh tâm đắc đó là bộ phim đã khơi gợi bi kịch gia đình, vốn là mẫu số chung của xã hội, sau đó bi kịch ấy lại được giải quyết một cách nhân văn từ chính những người trong gia đình. Điều anh muốn gửi gắm trong "Mặt nạ gương", đó là ở một khía cạnh nào đó con người ta luôn nhìn thấy gương mặt của mình trên gương mặt người khác. "Ta sẽ sống sao cho hợp mắt mọi người". Điều này đôi khi tạo nên những mâu thuẫn nội tại không thể giải quyết nổi, đó chính là chủ đề của tác phẩm. Cũng ở phần phim Cảnh sát hình sự này, ngoài việc viết kịch bản, anh tham gia đóng một vai phụ nhưng mang tính chất kết nối các câu chuyện trong phim. Năm 2023 Vũ Liêm thực hiện kịch bản phim " Biệt dược đen", chia sẻ với truyền thông trong cuộc họp báo anh khẳng định "Có thể mọi người thấy kịch bản phim đã cũ nhưng chúng tôi luôn tìm tòi làm mới trong cái cũ. Ê-kip sáng tạo đã mất một năm rưỡi viết kịch bản, xây dựng và xử lý nhân vật, từ tốt thành xấu, từ nạn nhân thành thủ phạm...Việc thay đổi kịch bản này không phải để gây sốc và tréo ngoe cho khán giả mà chúng tôi đã phải gửi kịch bản cho các chuyên gia thẩm định và ngồi với nhau để thống nhất và thấy sự thay đổi như vậy là hợp lý". Bộ phim sau đó nhận nhiều phản hồi tích cực từ khán giả tuy vẫn còn một số "sạn". Cũng trong năm 2023 Vũ Liêm với vai trò là Giám đốc sản xuất và tác giả kịch bản phim Đội điều tra số 7 đã góp phần đưa Điện ảnh Công an nhân dân trở lại sau nhiều năm vắng bóng ở mảng phim truyện. Tác phẩm Phim truyện truyền hình Chương trình nghệ thuật Tham khảo __CHỈ_MỤC__ __LIÊN_KẾT_MỤC_MỚI__ Biên kịch Đạo diễn
19857972
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iwona%20%C5%9Aledzi%C5%84ska-Katarasi%C5%84ska
Iwona Śledzińska-Katarasińska
Iwona Elżbieta Śledzińska-Katarasińska (3 tháng 1 năm 1941 – 1 tháng 1 năm 2024) là cựu nhà báo và chính khách người Ba Lan. Trước đây, bà từng là nghị sĩ Hạ viện Ba Lan từ ngày 25 tháng 11 năm 1991 đến ngày 12 tháng 11 năm 2023. Tham khảo Sinh năm 1941 Mất năm 2024 Chính khách Đảng Cương lĩnh dân sự Nữ chính khách Ba Lan thế kỷ 20 Nữ chính khách Ba Lan thể kỷ 21
19857982
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202019%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 – Giải đấu Nữ
Giải đấu nam khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 là giải đấu thứ 9 của nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ. Giải đấu diễn ra trong khoảng thời gian 12 ngày bắt đầu từ ngày 29 tháng 7 và kết thúc giải đấu bằng trận chung kết vào ngày 9 tháng 8. Đội tuyển giành được chiến thắng tại giải đấu này đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 ở Tokyo, Nhật Bản. Vòng loại Tổng cộng có tám đội vượt qua vòng loại để tranh tài tại giải đấu. Với tư cách là nước chủ nhà, Peru tự động vượt qua vòng loại và tham dự giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2018 và Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2018 cũng vượt qua vòng loại. Hai đội đứng đầu chưa đủ điều kiện tham dự Cúp Liên châu Mỹ 2017 (sau khi tính đến kết quả của hai giải đấu trên) cũng vượt qua vòng loại. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn chưa vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp giữa hai quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Nếu cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp sẽ không còn cần thiết và đội xếp thứ ba tại mỗi Cúp Liên châu Mỹ sẽ vượt qua vòng loại. Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ (PAHF) đã chính thức công bố các đội vượt qua vòng loại vào ngày 10 tháng 9 năm 2018. Các đội vượt qua vòng loại Đội hình Kết quả The official schedule was revealed on 10 January 2019. Tất cả các giờ đều là giờ địa phương (UTC−5). Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân loại Sơ loại Tứ kết Phân loại thứ hạng năm đến tám Cross-overs Thứ hạng bảy và tám Thứ hạng năm và sáu Bán kết Tranh huy chương đồng Tranh huy chương vàng Thống kê Bảng xếp hạng cuối cùng Đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 Cầu thủ ghi bàn Tham khảo Nữ Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019
19857992
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202019%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%99i%20h%C3%ACnh%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 – Đội hình Nữ
Bài viết này trình bày danh sách của tất cả các đội tuyển tham gia tại giải khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 ở Lima, Peru. Danh sách của một đội có thể có tối đa 16 vận động viên. Tuổi và số lần khoác áo đội tuyển tính đến ngày 29 tháng 7 năm 2019 và các câu lạc bộ mà họ thi đấu trong mùa giải 2018–19. Bảng A Argentina 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Argentina, được công bố vào ngày 11 tháng 7 năm 2019. Huấn luyện viên trưởng: Carlos Retegui Dự bị: Cristina Cosentino (TM) Priscila Jardel Canada 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Canada. Huấn luyện viên trưởng: Giles Bonnet Cuba Các cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Cuba. Huấn luyện viên trưởng: Nelson Ginorio Vega Yusnaidy Betancourt (TM) Yurismailis Garcia (TM) Sunaylis Nikle (C) Roseli Harrys Arlettis Tirse Brizaida Ramos Leticia Fernandez Yunia Milanes Yuraima Vera Yadira Miclin Jennifer Martinez Jessica Ortiz Yeskenia Gutierre Yurima Soria Yurisleydis Reyes Lismary Gonzalez Uruguay Các cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Uruguay. Huấn luyện viên trưởng: Nicolás Tixe Constance Schmidt-Liermann (TM) Manuela Vilar Pilar Oliveros Camila de Maria Constanza Barrandeguy Janine Stanley Anastasia Olave Agustina Taborda Magdalena Gomez Clementina Cristiani Teresa Viana Agustina Nieto (C) Soledad Villar Camila Piazza Agustina Prattes Jimena Garcia Georgina Petrik Maria Bate (TM) Bảng B Chile 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Chile. Huấn luyện viên trưởng: Diego Amoroso Dự bị: Mariana Lagos Natalia Salvador (TM) Mexico 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Mexico. Huấn luyện viên trưởng: Arely Castellanos Jesús Castillo (TM) Mireya Bianchi Mayra Lacheno Maribel Acosta Karen González Cindy Correa María Correa Michel Navarro (C) Jennifer Valdés Montserrat Inguanzo (TM) Ana Juárez Marlet Correa Arlette Estrada Fernanda Oviedo Nathalia Nava Karen Orozco Peru 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Peru. Huấn luyện viên trưởng: Patricio Martínez Chiara Conetta (TM) Camila Levaggi Solange Alonso Geraldine Quino Claudia Ardiles María José Fermi (C) Marina Montes Nicole Cueva Yurandi Quino Marianella Álvarez Camila Méndez Ana Palomino (TM) María Jiménez Malen Moccagatta Victoria Montes Daniela Ramírez Hoa Kỳ 16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Hoa Kỳ, được công bố vào ngày 9 tháng 7 năm 2019. Huấn luyện viên trưởng: Janneke Schopman Dự bị: Alyssa Parker Kealsie Robles (TM) Tham khảo Đội hình
19857999
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng%20%E1%BA%A3i%20gi%E1%BB%8Dng%20ai%20%28m%C3%B9a%201%29
Giọng ải giọng ai (mùa 1)
Mùa đầu tiên của chương trình trò chơi truyền hình về âm nhạc Giọng ải giọng ai được phát sóng trên kênh HTV7 từ ngày 5 tháng 11 năm 2016 đến ngày 4 tháng 3 năm 2017. Luật chơi Các vòng thi Chương trình có 3 vòng thi. 7 giọng ca bí ẩn sẽ xuất hiện trên sân khấu. Trong số họ sẽ có những người có giọng hát hay và những người hát không hay. Sau 3 vòng thi, đội nào chọn được chính xác thí sinh hát hay sẽ giành chiến thắng chung cuộc. Vòng hoá thân Hai đội chơi sẽ được xem những đoạn video clip giới thiệu về nghề nghiệp của 7 giọng ca bí ẩn. Cuối mỗi đoạn clip, hai đội chơi sẽ được nghe một âm thanh (ngắn hơn 1 giây) phát ra từ giọng ca bí ẩn đó. Sau vòng 1, mỗi đội chơi sẽ loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng siêu diễn Hai đội chơi sẽ được nghe 5 giọng ca bí ẩn còn lại hát nhép trên nền nhạc của một đoạn nhạc của những ca sĩ nổi tiếng. Sau vòng 2, mỗi đội chơi sẽ tiếp tục loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng lộ diện Mỗi đội chơi sẽ có 30 giây phỏng vấn 3 giọng ca bí ẩn còn lại. Sau phần phỏng vấn, mỗi đội chơi sẽ chọn 1 giọng ca bí ẩn hát hay để song ca với ca sĩ khách mời của đội đó. Giải thưởng Người chơi lựa chọn đúng giọng ca hát hay sẽ là người thắng cuộc và nhận được giải thưởng 50 triệu đồng. Nếu hai người chơi đều đoán đúng thì giải thưởng được chia đôi, mỗi người nhận 25 triệu đồng. Nếu cả hai đoán sai thì không ai nhận được giải thưởng. Mỗi giọng ca được chọn ở vòng cuối cùng sẽ nhận được giải thưởng 10 triệu đồng, bất kể họ hát hay hay không. Danh sách các tập Ghi chú Tham khảo Giọng ải giọng ai Mùa truyền hình Việt Nam năm 2016 Mùa truyền hình Việt Nam năm 2017
19858004
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BA%A3o%20ch%C3%ADnh%20ph%C3%B2ng%20ng%E1%BB%ABa%20ng%C3%A0y%2011%20th%C3%A1ng%2011
Cuộc đảo chính phòng ngừa ngày 11 tháng 11
Cuộc đảo chính phòng ngừa ngày 11 tháng 11 đôi khi được gọi là cuộc đảo chính Brasil năm 1955 hoặc được gọi là cuộc "chống đảo chính" hay "phản đảo chính" () là một loạt các sự kiện quân sự và chính trị do Henrique Teixeira Lott chỉ đạo dẫn đến việc Nereu Ramos đảm nhận chức tổng thống Brasil cho đến khi được kế nhiệm trong hòa bình bởi Juscelino Kubitschek vài tháng sau đó. Cuộc đảo chính không đổ máu đã cách chức tổng thống của Carlos Luz vì ông bị nghi ngờ âm mưu ngăn cản Kubitschek nhậm chức. Do sự khủng hoảng, Brasil đã chứng kiến sự thay đổi ba tổng thống trong vòng một tuần. References Đệ Tứ Cộng hòa Brasil Đảo chính quân sự ở Brasil Brasil Đảo chính Cuộc đảo chính Brasil Cuộc đảo chính Brasil
19858007
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lyrurus
Lyrurus
Lyrurus là một chi chim trong phân họ gà gô . Chúng được gọi là gà gô đen vì bộ lông của con đực của cả hai loài đều có màu đen làm màu cơ bản. Phân loại Chi Lyrurus được nhà tự nhiên học người Anh William John Swainson giới thiệu vào năm 1832 với loài gà gô đen là loài điển hình . Tên chi kết hợp từ lura trong tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là "đàn lia" với -ouros có nghĩa là "đuôi". Các loài Chi này có hai loài: Gà gô đen (Lyrurus tetrix) Gà gô Caucasian (Lyrurus mlokosiewiczi) Chú thích Liên kết ngoài Danh sách các chi chim Chim Đại lục Á Âu
19858013
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng%20%E1%BA%A3i%20gi%E1%BB%8Dng%20ai%20%28m%C3%B9a%202%29
Giọng ải giọng ai (mùa 2)
Mùa thứ hai của chương trình trò chơi truyền hình về âm nhạc Giọng ải giọng ai được phát sóng trên kênh HTV7 từ ngày 7 tháng 10 năm 2017 đến ngày 4 tháng 2 năm 2018. Luật chơi Các vòng thi Chương trình có 3 vòng thi. 7 giọng ca bí ẩn sẽ xuất hiện trên sân khấu. Trong số họ sẽ có những người có giọng hát hay và những người hát không hay. Sau 3 vòng thi, đội nào chọn được chính xác thí sinh hát hay sẽ giành chiến thắng chung cuộc. Vòng hoá thân Hai đội chơi sẽ được xem những đoạn video clip giới thiệu về nghề nghiệp của 7 giọng ca bí ẩn. Cuối mỗi đoạn clip, hai đội chơi sẽ được nghe một âm thanh (ngắn hơn 1 giây) phát ra từ giọng ca bí ẩn đó. Sau vòng 1, mỗi đội chơi sẽ loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng siêu diễn Hai đội chơi sẽ được nghe 5 giọng ca bí ẩn còn lại hát nhép trên nền nhạc của một đoạn nhạc của những ca sĩ nổi tiếng. Sau vòng 2, mỗi đội chơi sẽ tiếp tục loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng lộ diện 3 giọng ca bí ẩn còn lại sẽ thể hiện một tài lẻ của mình. Sau đó, mỗi đội chơi sẽ chọn 1 giọng ca bí ẩn hát hay để song ca với ca sĩ khách mời của đội đó. Giải thưởng Người chơi lựa chọn đúng giọng ca hát hay sẽ là người thắng cuộc và nhận được giải thưởng 50 triệu đồng. Nếu hai người chơi đều đoán đúng thì giải thưởng được chia đôi, mỗi người nhận 25 triệu đồng. Nếu cả hai đoán sai thì không ai nhận được giải thưởng. Mỗi giọng ca được chọn ở vòng cuối cùng sẽ nhận được giải thưởng 10 triệu đồng, bất kể họ hát hay hay không. Danh sách các tập Ghi chú Tham khảo Giọng ải giọng ai Mùa truyền hình Việt Nam năm 2017 Mùa truyền hình Việt Nam năm 2018
19858015
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202019
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019
Nội dung thi đấu môn Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 ở Lima, Peru được tổ chức từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8. Địa điểm tổ chức cuộc thi là sân khúc côn cầu nằm ở cụm dân cư Villa María del Triunfo. Tổng cộng có tám đội nam và tám đội nữ (mỗi đội gồm tối đa 16 vận động viên) tham gia tranh tài ở mỗi giải đấu. Điều này có nghĩa là có tổng cộng 256 vận động viên dự kiến thi đấu. Đội tuyển giành được chiến thắng tại giải đấu này đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 ở Tokyo, Nhật Bản. Quốc gia tham dự Có tổng cộng 9 quốc gia đã vượt qua vòng loại và giành quyền tham dự. Số lượng vận động viên đủ điều kiện nằm trong ngoặc đơn. Bảng tổng sắp huy chương Danh sách huy chương Vòng loại Tổng cộng có tám đội vượt qua vòng loại để tranh tài tại giải đấu. Với tư cách là nước chủ nhà, Peru tự động vượt qua vòng loại và tham dự giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2018 và Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2018 cũng vượt qua vòng loại. Hai đội đứng đầu chưa đủ điều kiện tham dự Cúp Liên châu Mỹ 2017 (sau khi tính đến kết quả của hai giải đấu trên) cũng vượt qua vòng loại. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn chưa vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp giữa hai quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Nếu cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp sẽ không còn cần thiết và đội xếp thứ ba tại mỗi Cúp Liên châu Mỹ sẽ vượt qua vòng loại. Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ (PAHF) đã chính thức công bố các đội vượt qua vòng loại vào ngày 10 tháng 9 năm 2018. Nam Trận đấu loại trực tiếp là không cần thiết vì Canada và Hoa Kỳ là hai đội đứng đầu đủ điều kiện tham dự Cúp Liên châu Mỹ Nam 2017. Nữ Trận đấu loại trực tiếp không được tổ chức và Canada nghiễm nhiên được trao suất tham dự. Giải đấu Nam Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân hạng Bảng xếp hạng cuối cùng Giải đấu Nữ Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân hạng Bảng xếp hạng cuối cùng Đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 Xem thêm Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 Tham khảo Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019 Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ Khúc côn cầu trên cỏ năm 2019 Giải đấu khúc côn cầu trên cỏ quốc tế tổ chức bởi Peru
19858016
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dickson
Dickson
Nguyễn Ngô Phúc Hậu (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh), thường được biết đến với nghệ danh Dickson hay Dickson Nguyen, là một nam ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc người Việt Nam. Năm 2023, anh lọt top 40 nghệ sĩ thịnh hành trên Zing mp3 với loạt hit triệu view như Ôm Em Được Không, Tình Yêu Không Thể Phá Vỡ, Lệ Tình… Bên cạnh đó, những ca khúc do anh sáng tác như Anh Yêu Vội Thế, Tàn Nhẫn… cũng được nhiều khán giả yêu thích. Sự nghiệp Dickson tên thật là Nguyễn Ngô Phúc Hậu, sinh ra và lớn lên ở Thành phố Hồ Chí Minh.. Từ 2015 đến 2017 Dickson ra mắt công chúng với vai trò ca sĩ. Trong thời gian này, anh gây ấn tượng mạnh mẽ với giọng hát trầm ấm và vẻ ngoài điển trai. Trước đó, anh từng trúng tuyển khoa Diễn viên của trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh TP.Hồ Chí Minh. Từ năm 2018, Dickson đã chuyển hướng sự nghiệp sang vai trò nhạc sĩ dưới cái tên mới và phát hành ca khúc đầu tay "Lại Ôm Cái Coi”, đánh dấu sự thay đổi trong phong cách sáng tác của anh. Dù mới chỉ là một tân binh trong lĩnh vực sáng tác, tham gia cuộc thi Sing My Song, ca khúc "Giữa Muôn Vạn Người" của anh đã nhanh chóng tạo được tiếng vang. Trong những năm tiếp theo, Dickson phát triển vượt bậc với vai trò nhạc sĩ, cộng tác với các nghệ sĩ tên tuổi: Hồ Ngọc Hà, Thu Phương, Ưng Hoàng Phúc, Isaac,.... cho ra đời nhiều ca khúc thành công như "Anh Bây Giờ Nhạt Quá”, "Cất Em Vào Tâm Tư”, "Mời Ngồi Sát” và "Đến Cuối Cùng Lại Cô Đơn”. Đặc biệt, vào năm 2021, ca khúc "Anh Yêu Vội Thế" và "Mình Đừng Quên Nhau" trở nên viral khắp các MXH và được đông đảo tầng lớp khán giả yêu thích. Trở lại năm 2023 với vai trò ca sĩ qua bản hit "Ôm Em Được Không”, hợp tác cùng nhạc sĩ Đông Thiên Đức, Dickson một lần nữa khẳng định tài năng và sự đa dạng trong phong cách âm nhạc của mình. Danh sách đĩa hát Đĩa đơn Sáng tác ấn tượng Chú thích Ca sĩ Việt Nam
19858022
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng%20%E1%BA%A3i%20gi%E1%BB%8Dng%20ai%20%28m%C3%B9a%203%29
Giọng ải giọng ai (mùa 3)
Mùa thứ ba của chương trình trò chơi truyền hình về âm nhạc Giọng ải giọng ai được phát sóng trên kênh HTV7 từ ngày 28 tháng 7 đến ngày 3 tháng 11 năm 2018. Từ mùa này, Ốc Thanh Vân và Thu Trang không còn góp mặt, thế chỗ cho hai cố vấn cố định này là các khách mời hỗ trợ thay đổi theo từng tập phát sóng. Luật chơi Các vòng thi Chương trình có 3 vòng thi. 7 giọng ca bí ẩn sẽ xuất hiện trên sân khấu. Trong số họ sẽ có những người có giọng hát hay và những người hát không hay. Sau 3 vòng thi, đội nào chọn được chính xác thí sinh hát hay sẽ giành chiến thắng chung cuộc. Vòng hoá thân Hai đội chơi sẽ được xem những đoạn video clip giới thiệu về nghề nghiệp của 7 giọng ca bí ẩn. Cuối mỗi đoạn clip, hai đội chơi sẽ được nghe một âm thanh (ngắn hơn 1 giây) phát ra từ giọng ca bí ẩn đó. Sau vòng 1, mỗi đội chơi sẽ loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng siêu diễn Hai đội chơi sẽ được nghe 5 giọng ca bí ẩn còn lại hát nhép trên nền nhạc của một đoạn nhạc của những ca sĩ nổi tiếng. Sau vòng 2, mỗi đội chơi sẽ tiếp tục loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng lộ diện Mỗi đội chơi sẽ có 30 giây phỏng vấn 3 giọng ca bí ẩn còn lại. Sau phần phỏng vấn, mỗi đội chơi sẽ chọn 1 giọng ca bí ẩn hát hay để song ca với ca sĩ khách mời của đội đó. Giải thưởng Người chơi lựa chọn đúng giọng ca hát hay sẽ là người thắng cuộc và nhận được giải thưởng 50 triệu đồng. Nếu hai người chơi đều đoán đúng thì giải thưởng được chia đôi, mỗi người nhận 25 triệu đồng. Nếu cả hai đoán sai thì không ai nhận được giải thưởng. Mỗi giọng ca được chọn ở vòng cuối cùng sẽ nhận được giải thưởng 10 triệu đồng, bất kể họ hát hay hay không. Danh sách các tập Ghi chú Tham khảo Giọng ải giọng ai Mùa truyền hình Việt Nam năm 2018
19858023
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan%20h%E1%BB%87%20NATO%E2%80%93Ukraina
Quan hệ NATO–Ukraina
Mối quan hệ giữa Ukraina và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bắt đầu vào năm 1991 sau khi Ukraina giành được độc lập sau khi Liên Xô tan rã. Ukraina lần đầu tiên tham gia Chương trình Đối tác vì Hòa bình của NATO vào năm 1994, sau đó tham gia Quy trình Lập kế hoạch và Đánh giá vào năm 1997 và Ủy ban NATO-Ukraina vào năm 1998. Mặc dù Ukraina ban đầu tuyên bố trung lập và không liên kết với các khối quân sự sau khi độc lập, sau đó nó báo hiệu sự quan tâm đến việc cuối cùng trở thành thành viên NATO. Sau khi Nga sáp nhập Krym và hỗ trợ lực lượng ly khai ở miền đông Ukraina vào năm 2014, Ukraina bắt đầu tích cực theo đuổi tư cách thành viên NATO, chính thức tuyên bố đây là mục tiêu chính sách chiến lược vào năm 2017. Tuy nhiên, triển vọng trở thành thành viên NATO vẫn chưa chắc chắn do xung đột đang diễn ra ở miền đông Ukraina và những lo ngại về việc đáp ứng các tiêu chí thành viên. Trong khi sự ủng hộ của công chúng đối với tư cách thành viên NATO đã tăng lên ở Ukraina kể từ năm 2014, thì triển vọng này vẫn tiếp tục vấp phải sự phản đối từ Nga, vốn coi khả năng Ukraina gia nhập NATO là một mối đe dọa an ninh. Một cuộc thăm dò năm 2017 cho thấy khoảng 69% người Ukraina muốn gia nhập NATO, so với 28% vào năm 2012 khi Yanukovych còn nắm quyền. Vào tháng 2 năm 2019, Quốc hội Ukraina đã bỏ phiếu sửa đổi Hiến pháp Ukraina để nêu rõ mục tiêu của Ukraina là thành viên NATO và Liên minh châu Âu. Tại Hội nghị thượng đỉnh Brussels tháng 6 năm 2021, các nhà lãnh đạo NATO đã nhắc lại quyết định được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh Bucharest 2008 rằng Ukraina cuối cùng sẽ trở thành thành viên NATO với MAP là một phần không thể thiếu của quá trình, và Ukraina có quyền quyết định tương lai và chính sách đối ngoại của mình mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cũng nhấn mạnh rằng Nga sẽ không thể phủ quyết việc Ukraina gia nhập NATO "vì chúng ta sẽ không quay trở lại kỷ nguyên phạm vi lợi ích, khi các nước lớn quyết định những nước nhỏ hơn nên làm gì." Trước khi thực hiện các hành động tiếp theo đối với tư cách thành viên NATO, Nga đã phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraina vào ngày 24 tháng 2 năm 2022. Các cuộc thăm dò được thực hiện từ năm 2005 đến năm 2013 cho thấy người Ukraina không ủng hộ việc trở thành thành viên NATO. Tuy nhiên, kể từ khi bắt đầu chiến tranh Nga-Ukraina vào năm 2014, sự ủng hộ của công chúng Ukraina đối với tư cách thành viên NATO đã tăng lên rất nhiều. Kể từ tháng 6 năm 2014, các cuộc thăm dò cho thấy khoảng 50% số người được hỏi ủng hộ việc Ukraine trở thành thành viên NATO. Vào ngày 30 tháng 9 năm 2022, Ukraina chính thức nộp đơn xin gia nhập NATO, sau khi Nga sáp nhập miền Nam và miền Đông Ukraina. Tham khảo Quan hệ ngoại giao của Ukraina Quan hệ NATO–Ukraina
19858029
https://vi.wikipedia.org/wiki/Krystyna%20Pyszkov%C3%A1
Krystyna Pyszková
Krystyna Pyszková (, sinh ngày 19 tháng 1 năm 1999) là một người mẫu và hoa hậu người Séc, cô đã đăng quang Hoa hậu Thế giới 2023 vào ngày 9 tháng 3 năm 2024. Trước đó, cô đã đăng quang Hoa hậu Cộng hòa Séc 2022 và là người phụ nữ thứ hai đại diện cho Cộng hòa Séc giành chiến thắng tại Hoa hậu Thế giới. Tiểu sử và học vấn Pyszková sinh vào ngày 19 tháng 1 năm 1999 tại Třinec, nơi cô được học tại Gymnázium Třinec. Cô lớn lên ở ngôi làng Návsí gần đó, cô là người Séc thuộc dân tộc thiểu số Silesian Gorals ở Trans-Olza. Pyszková chuyển đến Praha để tiếp tục học tập của cô. Trước khi đăng quang Hoa hậu Cộng hòa Séc, Pyszková đang theo học ngành Luật tại Đại học Charles ở Praha và Quản trị Kinh doanh tại MCI Management Center Innsbruck ở Innsbruck. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Cộng hòa Séc 2022 Pyszková bắt đầu sự nghiệp thi hoa hậu vào năm 2022, khi cô lọt vào vòng chung kết Hoa hậu Cộng hòa Séc 2022. Cuộc thi sau đó được tổ chức vào tháng 5 năm 2022 và Pyszková đã giành được ngôi vị cao nhất. Với tư cách là Hoa hậu Cộng hòa Séc 2022, cô được chọn là đại diện cho Cộng hòa Séc tại Hoa hậu Thế giới 2023. Hoa hậu Thế giới 2023 Cuộc thi lần thứ 71 của Hoa hậu Thế giới ban đầu dự kiến được tổ chức tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Cuộc thi sau đó thay đổi địa điểm tổ chức sang Ấn Độ và dự kiến tổ chức vào ngày 16 tháng 12 năm 2023 tại Mumbai. Tuy nhiên, cuộc thi được dời sang ngày 2 tháng 3 năm 2024 do cuộc bầu cử năm 2023 tại Ấn Độ, và sau đó cuộc thi được dời lại một lần nữa đến ngày 9 tháng 3 năm 2024. Hoa hậu Thế giới bắt đầu diễn ra tại New Delhi vào tháng 2 năm 2024 với các phần thi phụ của cuộc thi trước đêm chung kết, với Pyszková tiếp tục lọt vào top 4 chung cuộc châu Âu trong phần thi Top Model và lọt vào top 10 chung cuộc trong phần thi Beauty with a Purpose. Đêm chung kết của cuộc thi được tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Jio World, Mumbai vào ngày 9 tháng 3, Pyszková đã đăng quang ngôi cao nhất của cuộc thi. Với danh hiệu của mình, Pyszková trở thành người phụ nữ thứ hai đại diện cho Cộng hòa Séc giành chiến thắng Hoa hậu Thế giới, sau Taťána Kuchařová, người đã đăng quang Hoa hậu Thế giới 2006. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Hoa hậu Séc Người mẫu Séc Hoa hậu Thế giới
19858031
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng%20%E1%BA%A3i%20gi%E1%BB%8Dng%20ai%20%28m%C3%B9a%204%29
Giọng ải giọng ai (mùa 4)
Mùa thứ tư của chương trình trò chơi truyền hình về âm nhạc Giọng ải giọng ai được phát sóng trên kênh HTV7 từ ngày 27 tháng 7 năm 2019 đến ngày 18 tháng 1 năm 2020. Ban đầu chương trình được phát sóng trên truyền hình trong vòng 15 tuần, sau đó, số tập mùa này được nâng lên thành 26, với 11 tập không lên sóng được công chiếu trên nhiều kênh YouTube chính thức của nhà sản xuất. Mùa này giới thiệu nhiều yếu tố mới, chẳng hạn như giọng ca bí ẩn được ẩn mình trong lớp mascot, một vị trí hai giọng ca bí ẩn. Đặc biệt, trong mùa này có một tập phát sóng mà tất cả các giọng ca bí ẩn đều là trẻ em. Luật chơi Các vòng thi Chương trình có 3 vòng thi. 7 giọng ca bí ẩn sẽ xuất hiện trên sân khấu. Trong số họ sẽ có những người có giọng hát hay và những người hát không hay. Sau 3 vòng thi, đội nào chọn được chính xác thí sinh hát hay sẽ giành chiến thắng chung cuộc. Vòng hoá thân Hai đội chơi sẽ được xem những đoạn video clip giới thiệu về nghề nghiệp của 7 giọng ca bí ẩn. Cuối mỗi đoạn clip, hai đội chơi sẽ được nghe một âm thanh (ngắn hơn 1 giây) phát ra từ giọng ca bí ẩn đó. Sau vòng 1, mỗi đội chơi sẽ loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng siêu diễn Hai đội chơi sẽ được nghe 5 giọng ca bí ẩn còn lại hát nhép trên nền nhạc của một đoạn nhạc của những ca sĩ nổi tiếng. Sau vòng 2, mỗi đội chơi sẽ tiếp tục loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng lộ diện Mỗi đội chơi sẽ có 30 giây phỏng vấn 3 giọng ca bí ẩn còn lại. Sau phần phỏng vấn, mỗi đội chơi sẽ chọn 1 giọng ca bí ẩn hát hay để song ca với ca sĩ khách mời của đội đó. Giải thưởng Người chơi lựa chọn đúng giọng ca hát hay sẽ là người thắng cuộc và nhận được giải thưởng 50 triệu đồng. Nếu hai người chơi đều đoán đúng thì giải thưởng được chia đôi, mỗi người nhận 25 triệu đồng. Nếu cả hai đoán sai thì không ai nhận được giải thưởng. Mỗi giọng ca được chọn ở vòng cuối cùng sẽ nhận được giải thưởng 10 triệu đồng, bất kể họ hát hay hay không. Danh sách các tập Ghi chú Tham khảo Giọng ải giọng ai Mùa truyền hình Việt Nam năm 2019 Mùa truyền hình Việt Nam năm 2020
19858032
https://vi.wikipedia.org/wiki/Smile%202%20%28phim%202024%29
Smile 2 (phim 2024)
Smile 2 (tạm dịch: Cười 2) là bộ phim kinh dị siêu nhiên tâm lý của Hoa Kỳ được đạo diễn kiêm biên kịch bởi Parker Finn, với sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên chính bao gồm Kyle Gallner, Naomi Scott, Lukas Gage và Rosemarie DeWitt. Đây sẽ là phần phim hậu truyện của Cười (2022), được chuyển thể từ bộ phim ngắn Laura Hasn't Slept (2020) của Finn. Quá trình tiền kỳ của phim được bắt đầu vào tháng 4 năm 2023. Phim được công chiếu vào ngày 18 tháng 10, 2024 và do hãng Paramount Pictures phát hành. Diễn viên Kyle Gallner thủ vai Joel Naomi Scott Lukas Gage Rosemarie DeWitt Dylan Gelula Raúl Castillo Sản xuất Quay phim Quá trình quay phim chính của phim được bắt đầu vào cuối tháng 1, 2024 tại Hudson Valley, New York với các địa điểm chính bao gồm Newburgh, Poughkeepsie, Wappingers Falls, Albany và Thành phối New York. Bộ phim chính thức đóng máy vào tháng 3 cùng năm. Phát hành Bộ phim sẽ phát hành vào ngày 18 tháng 10, 2024 và do hãng Paramount Pictures phân phối. Nguồn Liên kết ngoài Phim năm 2024 Phim Mỹ Phim tiếng Anh Phim thập niên 2020 Phim kinh dị Phim siêu nhiên Phim tâm lý Phim kinh dị siêu nhiên Phim kinh dị tâm lý Phim được đạo diễn bởi Parker Finn Phim với kịch bản của Parker Finn Phim Mỹ năm 2024 Phim kinh dị năm 2024 Phim siêu nhiên năm 2024 Phim kinh dị siêu nhiên năm 2024 Phim tâm lý năm 2024 Phim kinh dị tâm lý năm 2024 Phim Mỹ thập niên 2024 Phim siêu nhiên Mỹ Phim kinh dị Mỹ Phim tâm lý Mỹ Phim kinh dị siêu nhiên Mỹ Phim kinh dị tâm lý Mỹ Phim tiếng Anh thập niên 2020 Phim kinh dị thập niên 2020 Phim siêu nhiên thập niên 2020 Phim tâm lý thập niên 2020 Phim kinh dị siêu nhiên thập niên 2020 Phim kinh dị tâm lý thập niên 2020 Phim hậu truyện Phim hậu truyện Mỹ Phim hậu truyện năm 2024 Phim hậu truyện thập niên 2020
19858033
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20c%C3%A1c%20c%C3%A2u%20l%E1%BA%A1c%20b%E1%BB%99%20b%C3%B3ng%20ch%C3%A0y%20to%C3%A0n%20qu%E1%BB%91c%202023
Cúp các câu lạc bộ bóng chày toàn quốc 2023
Cúp các câu lạc bộ bóng chày toàn quốc 2023 là mùa giải thứ 2 của Cúp các câu lạc bộ bóng chày toàn quốc. Giải đấu diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 7 năm 2023 tại Khu Liên hợp Thể thao quốc gia Mỹ Đình. Các đội bóng Thể thức thi đấu Cúp các câu lạc bộ bóng chày toàn quốc 2023 diễn ra tại Khu Liên hợp Thể thao quốc gia Mỹ Đình với sự tham gia, thi đấu của 11 đội bóng. Quy mô giải đấu được gia tăng từ 8 lên 11 đội bóng tham dự so với năm 2022, gồm 2 đội đến từ TP Hồ Chí Minh, 2 đội đến từ TP Đà Nẵng và 7 đội ở Hà Nội. Số lượng vận động viên dự giải lên đến hơn 200 chày thủ. Đặc biệt, tại Giải đấu năm 2023, thành phần vận động viên tham gia hoàn toàn là người Việt Nam và không có ngoại binh, nhằm đảm bảo không gian phát triển cho các chày thủ Việt Nam. Theo thể lệ, giải Cúp các CLB Bóng chày toàn quốc 2023 sẽ được tổ chức theo hình thức loại kép (double elimination) và luật Mercy Rule (áp dụng từ hiệp 4 nếu khoảng cách là 10 điểm trở lên, luật được áp dụng cả ở lượt tấn công của đội khách). Mỗi trận đấu sẽ có tối đa 7 hiệp hoặc 150 phút. Sau 110 phút sẽ không có hiệp đấu mới. Nếu sau 7 hiệp hoặc 150 phút trận đấu vẫn có kết quả hòa thì hai đội sẽ thi đấu hiệp phụ. Các trận thi đấu , 21.5-20.5 }} | col5-col6-paths = , 21-20 | #default = (7.5,20.5)-14 }} | col6-col7-paths = (7.5, 20)-14 | boldwinner = y | RD1 = Nhánh thắng - Vòng 1 | RD2 = Nhánh thắng - Vòng 2 | RD3 = Nhánh thắng - Vòng 3 | RD4 = Nhánh thắng - Chung kết | RD6 = Chung kết tổng | RD1b =Nhánh thua - Vòng 1 | RD2b =Nhánh thua - Vòng 2 | RD3b =Nhánh thua - Vòng 3 | RD4b =Nhánh thua - Vòng 4 | RD5b =Nhánh thua - Chung kết | RD1-text1 = Trận 1 | RD1-team1 = Saigon Storm | RD1-score1 = 19 | RD1-team2 = Hanoi Phantoms | RD1-score2 = 0 | RD1-text2 = Trận 2 | RD1-team3 = Hanoi Archers | RD1-score3 = 10 | RD1-team4 = Alligator | RD1-score4 = 0 | RD1-text3 = Trận 3 | RD1-team5 = Hanoi 29ers | RD1-score5 = 13 | RD1-team6 = HUST Red Owls | RD1-score6 = 4 | RD1-text4 = Trận 8 | RD1-team7 = HUST Red Owls | RD1-seed7 = | RD1-score7 = 11 | RD1-team8 = Danang Whales | RD1-seed8 = | RD1-score8 = 5 | RD1-text5 = Trận 9 | RD1-team9 = Alligator | RD1-seed9 = | RD1-score9 = 19 | RD1-team10 = Hanoi Amsterdam Phoenix | RD1-seed10 = | RD1-score10 = 5 | RD1-text6 = Trận 10 | RD1-team11 = Ho Chi Minh City Thunder | RD1-seed11 = | RD1-score11 = 11 | RD1-team12 = Hanoi Phantoms | RD1-seed12 = | RD1-score12 = 0 | RD2-text1 = Trận 4 | RD2-seed1 = | RD2-team1 = Saigon Storm | RD2-score1 = 11 | RD2-team2 = Danang Whales | RD2-score2 = 4 | RD2-text2 = Trận 5 | RD2-team3 = ULIS Devil Bats | RD2-score3 = 20 | RD2-team4 = Hanoi Amsterdam Phoenix | RD2-score4 = 5 | RD2-text3 = Trận 6 | RD2-team5 = Hanoi Archers | RD2-seed5 = | RD2-score5 = 12 | RD2-team6 = Ho Chi Minh City Thunder | RD2-score6 = 3 | RD2-text4 = Trận 7 | RD2-team7 = Hanoi 29ers | RD2-seed7 = | RD2-score7 = 8 | RD2-team8 = Danang Lemaeus | RD2-score8 = 0 | RD2-text5 = Trận 11 | RD2-team9 = HUST Red Owls | RD2-seed9 = | RD2-score9 = 13 | RD2-team10 = Alligator | RD2-seed10 = | RD2-score10 = 9 | RD2-text6 = Trận 12 | RD2-team11 = Ho Chi Minh City Thunder | RD2-seed11 = | RD2-score11 = 11 | RD2-team12 = Danang Lemaeus | RD2-seed12 = | RD2-score12 = 1 | RD3-text1 = Trận 13 | RD3-seed1 = | RD3-team1 = Saigon Storm | RD3-score1 = 27 | RD3-seed2 = | RD3-team2 =ULIS Devil Bats | RD3-score2 = 5 | RD3-text2 = Trận 14 | RD3-seed3 = | RD3-team3 = Hanoi Archers | RD3-score3 = 9 | RD3-seed4 = | RD3-team4 = Hanoi 29ers | RD3-score4 = 2 | RD3-text3 = Trận 15 | RD3-seed5 = | RD3-team5 = HUST Red Owls | RD3-score5 = 7 | RD3-seed6 = | RD3-team6 = ULIS Devil Bats | RD3-score6 = 6 | RD3-text4 = Trận 16 | RD3-seed7 = | RD3-team7 = Ho Chi Minh City Thunder | RD3-score7 = 5 | RD3-seed8 = | RD3-team8 = Hanoi 29ers | RD3-score8 = 3 | RD4-text1 = Trận 17 | RD4-team1 = Saigon Storm | RD4-seed1 = | RD4-score1 = 8 | RD4-team2 = Hanoi Archers | RD4-seed2 = | RD4-score2 = 7 | RD4-text2 = Trận 18 | RD4-team3 = HUST Red Owls | RD4-seed3 = | RD4-score3 = 3 | RD4-team4 = Ho Chi Minh City Thunder | RD4-seed4 = | RD4-score4 = 12 | RD5-text1 = Trận 19 | RD5-team1 = Hanoi Archers | RD5-seed1 = | RD5-score1 = 12 | RD5-team2 = Ho Chi Minh City Thunder | RD5-seed2 = | RD5-score2 = 4 | RD6-text1 = Trận 20 | RD6-team1 = Saigon Storm | RD6-seed1 = | RD6-score1 = 15 | RD6-team2 = Hanoi Archers | RD6-seed2 = | RD6-score2 = 11 }} Xem thêm Liên đoàn bóng chày và bóng mềm Việt Nam Đội tuyển bóng chày quốc gia Việt Nam Tham khảo Bóng chày Việt Nam
19858035
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng%20%E1%BA%A3i%20gi%E1%BB%8Dng%20ai%20%28m%C3%B9a%205%29
Giọng ải giọng ai (mùa 5)
Mùa thứ năm của chương trình trò chơi truyền hình về âm nhạc Giọng ải giọng ai được phát sóng trên kênh HTV7 từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 4 tháng 10 năm 2020. Theo thông báo từ đạo diễn Khương Dừa vào ngày 5 tháng 4 năm 2020, chương trình ban đầu có kế hoạch phải tạm hoãn phát sóng mùa này do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, và có khả năng bị hủy bỏ. Tuy vậy, sau đó anh đã quyết định hủy bỏ kế hoạch này và tiếp tục phát sóng. Luật chơi có sự thay đổi khi bất kỳ đội nào đều có thể chốt ngay giọng ca bí ẩn mà mình lựa chọn ngay từ vòng đầu tiên; ngoài ra, bất cứ giọng ca hát hay nào bị loại ở vòng 1 và 2 đều sẽ có tiền thưởng ra về. Mùa này có một tập đặc biệt, khi các giọng ca bí ẩn đều là những nghệ sĩ nổi tiếng. Luật chơi Các vòng thi Chương trình có 3 vòng thi. 7 giọng ca bí ẩn sẽ xuất hiện trên sân khấu. Trong số họ sẽ có những người có giọng hát hay và những người hát không hay. Sau 3 vòng thi, đội nào chọn được chính xác thí sinh hát hay sẽ giành chiến thắng chung cuộc. Vòng hoá thân Hai đội chơi sẽ được xem những đoạn video clip giới thiệu về nghề nghiệp của 7 giọng ca bí ẩn. Cuối mỗi đoạn clip, hai đội chơi sẽ được nghe một âm thanh (ngắn hơn 1 giây) phát ra từ giọng ca bí ẩn đó. Sau vòng 1, mỗi đội chơi sẽ loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Bất kỳ đội nào có thể quyết định chọn 1 giọng ca bí ẩn ngay từ vòng này để song ca với ca sĩ khách mời ở cuối chương trình. Giọng ca bí ẩn đó sẽ không thể được đội chơi lựa chọn thay đổi đến hết chương trình và không thể bị đội đối phương loại. Vòng siêu diễn Hai đội chơi sẽ được nghe 5 giọng ca bí ẩn còn lại hát nhép trên nền nhạc của một đoạn nhạc của những ca sĩ nổi tiếng. Sau vòng 2, mỗi đội chơi sẽ tiếp tục loại ra 1 giọng ca bí ẩn mà họ cho là hát không hay. Vòng lộ diện Mỗi đội chơi sẽ có 30 giây phỏng vấn 3 giọng ca bí ẩn còn lại. Sau phần phỏng vấn, mỗi đội chơi sẽ chọn 1 giọng ca bí ẩn hát hay để song ca với ca sĩ khách mời của đội đó, bắt đầu từ đội loại được nhiều giọng ca hát không hay hơn sau 2 vòng đầu tiên. Trong trường hợp đội đã lựa chọn giọng ca bí ẩn ngay từ vòng 1, đội chơi đó không thể thay đổi quyết định của mình ở vòng này. Giải thưởng Người chơi lựa chọn đúng giọng ca hát hay sẽ là người thắng cuộc và nhận được giải thưởng 50 triệu đồng. Nếu hai người chơi đều đoán đúng thì giải thưởng được chia đôi, mỗi người nhận 25 triệu đồng. Nếu cả hai đoán sai thì không ai nhận được giải thưởng. Mỗi giọng ca được chọn ở vòng cuối cùng sẽ nhận được giải thưởng 10 triệu đồng, bất kể họ hát hay hay không. Bất cứ giọng ca hát hay nào bị loại ở vòng 1 và vòng 2 sẽ nhận được giải thưởng 2 triệu đồng, được trao trực tiếp từ đội đã loại người chơi đó. Danh sách các tập Ghi chú Tham khảo Giọng ải giọng ai Mùa truyền hình Việt Nam năm 2020
19858070
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hanazumi%20Hideyo
Hanazumi Hideyo
là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Niigata kể từ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Tham khảo Thống đốc Niigata Chính khách từ Niigata Sinh năm 1958 Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Tokyo
19858077
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kho%20b%C3%A1u%20Martynivka
Kho báu Martynivka
Kho báu Martynivka (, Martynivsky skarb) là một kho tích trữ bao gồm 116 hiện vật làm bằng bạc (với tổng trọng lượng vào khoảng 3,3 kg) được tìm thấy vào năm 1907 tại làng Martynivka, tỉnh Cherkasy, Ukraina. Kho báu hiện được bảo quản tại hai bảo tàng: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Ukraina tại Kyiv và Bảo tàng Anh tại Luân Đôn. Việc chia tách các báu vật để trưng bày ở hai bảo tàng đã gây khó khăn trong công tác nghiên cứu về kho báu. Kho báu Martynivka được cho là có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ sáu hoặc thứ bảy Công nguyên. Google Art and Culutre cho rằng kho báu này có niên đại vào khoảng từ năm 500 đến năm 700 Công nguyên. Nguồn gốc Ngày chính xác tìm ra kho báu này chưa được biến đến. Theo thông tin truyền miệng, vụ phát hiện kho báu rất có thể đã xảy ra vào năm 1905 trong khu đất của Vladimir Murav'ev Apostol. Các nhà sưu tập đồ cổ khi hay tin, đã quá trễ để đến mua lại các hiện vật, trừ nhà sưu tập Bogdan Khanenco. Khanenco mua và sau đó tặng lại Bảo tàng Kyiv 28 hiện vật vào cuối năm 1909. Các hiện vật được đăng ký là tìm thấy tại Rzhischev, phía tây bắc Kanev bởi Khanenco. Khanenco có thể đã đăng ký vị trí tìm thấy báu vật khác đi so với sự thật nhằm tránh rắc rối với chủ đất Vladimir Murav'ev Apostol. Tháng 6 năm 1913, bảo tàng mua lại được thêm 7 hiện vật từ người bán không rõ lai lịch; và 44 hiện vật nữa được mua từ chính chủ khu đất Vladimir Murav'ev Apostol (tính cả năm hiện vật ông này mua lại từ tay các nhà sưu tập). Hai mươi ba hiện vật khác đã được Bảo tàng Anh mua lại vào năm 1912. Mặc dù các hiện vật được công bố tìm thấy tại vùng Kanev, không rõ rằng chúng được tìm thấy cùng một thời điểm. Nhiều giả thuyết khác nhau đã được đưa ra bởi các nhà sử học về nền văn hóa đã tạo nên các hiện vật nằm trong kho báu này. Giả thuyết phổ biến cho rằng kho báu này có liên quan với nền văn hóa Penkovo của Antes . Chi tiết các món đồ trong kho báu Kho báu này bao gồm bốn bức tượng cỡ nhỏ bằng bạc có hình người đang nhảy múa, (báo chí Ukraina đôi khi miêu tả các bức tượng này là 'người ngoài hành tinh' do vẻ ngoài khác biệt của chúng), năm bức tượng nhỏ khắc họa hình ảnh động vật, ba chiếc ghim cài áo, một chiếc trâm cài đầu, sáu vòng tay, vương miện, khuyên tai, vòng cổ, khóa, đầu dây thắt lưng và dây nịt ngựa. Phong cách tạo hình của các bức tượng nhỏ đôi lúc được xem là chịu ảnh hưởng của người Hung, người Bulgar hoặc người Avar Pannonia. Kho báu này được tin là đã được cất giấu vào khoảng năm 620-640 sau Công nguyên, và một đặc điểm của nó là kho báu này hoàn toàn không bất kỳ một đồng xu nào. Tham khảo Sách Клейн Л. С. Пляшущие человечки Конан-Дойля на Руси // Троицкий вариант — Наука. № 99. trang 14. Корзухина Г. Ф. Клады и случайные находки вещей круга «Древностей антов» в Среднем Поднепровье. Каталог памятников // МАИЭТ. Вып. V. Симферополь, 1996. trang 352—425, 525—705. Рыбаков Б. A. Древние русы // Советская археология. T. XVII. 1953. trang 76-89. Liên kết ngoài Пеньковская (антская) культура (Văn hóa Penkovskaya) Kho báu Ukraina
19858079
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%9F%20Ngo%E1%BA%A1i%20v%E1%BB%A5
Sở Ngoại vụ
Sở Ngoại vụ là một trong những cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, không phải tất cả các tỉnh, thành trên cả nước đều có Sở Ngoại vụ. Một số tỉnh thành có Sở Ngoại vụ như: Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng… Cơ cấu tổ chức Sở Ngoại vụ Theo quy định tại Thông tư 03/2021/TT-BNG, cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể. Đồng thời, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng sẽ có nhiệm vụ quy định cơ cấu công chức tại Sở Ngoại Vụ. Trong trường hợp, Sở Ngoại vụ có đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng sẽ là cơ quan quy định cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Ngoại vụ. Dưới đây là cơ cấu tổ chức của một số Sở Ngoại vụ tại các Thành phố lớn trên cả nước: Sở Ngoại vụ Thành phố Hà Nội Cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ Thành phố Hà Nội gồm có: - Văn phòng; - Thanh tra; - Phòng Hợp tác Quốc tế; - Phòng Lãnh sự - Người Việt Nam ở nước ngoài; - Phòng Lễ tân đối ngoại. Địa chỉ: Số 10 Lê Lai, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội Sở Ngoại vụ Thành phố Hải Phòng Cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ Thành phố Hải Phòng gồm có: - Văn phòng; - Thanh tra (bao gồm công tác pháp chế); - Phòng Hợp tác quốc tế; - Phòng Lãnh sự - Người Việt Nam ở nước ngoài. - Trung tâm Thông tin và Phát triển Đối ngoại (đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Ngoại vụ Thành phố Hải phòng) Địa chỉ: Số 15 Trần Quang Khải, quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng Sở Ngoại vụ Thành phố Đà Nẵng Cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ Thành phố Đà Nẵng gồm có: - Văn phòng sở - Thanh tra sở - Phòng Hợp tác quốc tế - Lễ tân đối ngoại - Phòng Lãnh sự - Người Việt Nam ở nước ngoài. - Trung tâm phục vụ đối ngoại (đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Ngoại vụ Thành phố Đà Nẵng) - Trung tâm phát triển hợp tác quốc tế (đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Ngoại vụ Thành phố Đà Nẵng) Địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố Đà Nẵng, 24 Trần Phú, Phường Thạch Thang, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng Sở Ngoại vụ Thành phố Cần Thơ Cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ Thành phố Cần Thơ gồm có: - Phòng Nghiệp vụ đối ngoại; - Thanh tra; - Văn phòng. Địa chỉ: Số 27 Ngô Gia Tự, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ Chức năng, nhiệm vụ của Sở Ngoại vụ Hiện nay, Sở Ngoại vụ được xem là một cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện 02 nhiệm vụ chính: - Thứ nhất, công tác ngoại vụ - Thứ hai, công tác biên giới quốc gia, nhiệm vụ này được thực hiện đối với các tỉnh có đường biên giới giáp với nước bạn. Theo nguyên tắc quản lý nhà nước hiện nay, Sở Ngoại vụ sẽ chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về biên chế, hoạt động. Còn đối với công tác chuyên môn, Sở Ngoại vụ sẽ chịu sự chỉ đạo từ Bộ Ngoại giao. Một số Sở Ngoại vụ trên cả nước Như đã đề cập ở trên, không phải tất cả các tỉnh, thành phố đều có Sở Ngoại vụ. Dưới đây là một số tỉnh, thành phố có Sở Ngoại vụ hiện nay: - Thành phố Cần Thơ - Thành phố Đà Nẵng - Thành Phố Hải Phòng - Thành phố Hà Nội - Tỉnh An Giang - Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - Tỉnh Bắc Giang - Tỉnh Bình Định - Tỉnh Bình Dương - Tỉnh Bình Phước - Tỉnh Cao Bằng - Tỉnh Đắk Lắk - Tỉnh Điện Biên - Tỉnh Đồng Nai ….và một số tỉnh thành khác. Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh Khác với một số Sở Ngoại vụ tại một số tỉnh, thành phố khác. Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao, không phải thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nhiệm vụ Sở Ngoại vụ Thành Phố Hồ Chí Minh Một số nhiệm vụ của Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh có thể kể đến như: - Tham mưu cho Bộ Ngoại giao về công tác đối ngoại - Trực tiếp thực hiện các hoạt động đối ngoại tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam (từ Đà Nẵng đến Cà Mau) Đơn vị chức năng của Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh - Phòng Chính trị Kinh tế đối ngoại; - Phòng Văn hóa Thông tin đối ngoại; - Phòng Lãnh sự; - Phòng Lễ tân; - Phòng Tổ chức Cán bộ; - Văn phòng; - Viện Trao đổi Văn hóa với Pháp; - Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng kiến thức Ngoại giao và Ngoại ngữ; - Trung tâm Dịch vụ đối ngoại; - Nhà khách Chính phủ. Trụ sở Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh Hiện nay, Trụ sở Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh được đặt tại số 184 bis đường Pasteur, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Tham khảo Pháp luật Bộ máy nhà nước
19858088
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samhain
Samhain
Bài này viết về ngày lễ Gaelic. Đối với các mục đích sử dụng khác, xem Samhain (định hướng) . Samhain ( / ˈ s ɑː w ɪ n / SAH -win , / ˈ s aʊ ɪ n / SOW -in , Tiếng Ireland: [ˈsˠəunʲ] , Tiếng Gaelic Scotland: [ˈs̪ãũ.ɪɲ] ), Sauin ( Manx: [ˈsoːɪnʲ] ) hoặc Oíche Shamhna ( / ˈ iː h ə ˈ haʊ n ə / EE -hə HOW-nə ) là một lễ hội Gaelic vào ngày 1 tháng 11 đánh dấu sự kết thúc của mùa thu hoạch và bắt đầu mùa đông hay " nửa đen tối " của năm.  Đây cũng là tên tiếng Ireland của tháng 11 . Lễ kỷ niệm bắt đầu vào tối ngày 31 tháng 10, vì ngày của người Celtic bắt đầu và kết thúc vào lúc hoàng hôn.  Đây là khoảng giữa thời điểm thu phân và đông chí . Đây là một trong bốn lễ hội theo mùa của người Gaelic cùng với Imbolc , Bealtaine và Lughnasa . Về mặt lịch sử, nó được quan sát rộng rãi trên khắp Ireland , Scotland và Đảo Man . Một lễ hội tương tự được tổ chức bởi người Celtic Brittonic , được gọi là Calan Gaeaf ở xứ Wales . Samhain được cho là có nguồn gốc ngoại giáo Celtic , và một số ngôi mộ thời kỳ đồ đá mới ở Ireland và Anh được xếp thẳng hàng với mặt trời mọc vào thời điểm Samhain.  Nó được nhắc đến trong văn học Ireland sớm nhất , từ thế kỷ thứ 9, và gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng trong thần thoại Ireland . Văn học cổ xưa nói rằng những cuộc tụ họp và lễ hội lớn đánh dấu lễ Samhain khi những ngôi mộ cổ xưa được mở cửa, được coi là cánh cổng dẫn đến Thế giới khác . Một số tài liệu cũng liên kết Samhain với lửa trại và lễ hiến tế. Lễ hội không được ghi lại chi tiết cho đến đầu kỷ nguyên hiện đại. Đó là khi gia súc được đưa xuống từ đồng cỏ mùa hè và gia súc bị giết thịt. Những ngọn lửa đặc biệt được đốt lên, được cho là có khả năng bảo vệ và tẩy rửa.  Giống như Bealtaine , Samhain là một lễ hội danh nghĩa hoặc ngưỡng cửa, khi ranh giới giữa thế giới này và Thế giới khác mờ đi, khiến nhiều khả năng tiếp xúc với aos sí ('linh hồn' hoặc ' tiên nữ '). Hầu hết các học giả đều coi chúng là tàn tích của các vị thần ngoại giáo. Tại Samhain, họ được xoa dịu bằng việc cúng dường thức ăn và đồ uống để đảm bảo người dân và gia súc sống sót qua mùa đông. Linh hồn của những người thân đã chết cũng được cho là sẽ quay trở lại nhà của họ để tìm kiếm lòng hiếu khách, và một chỗ sẽ được dọn sẵn trên bàn cho họ trong bữa ăn. Làm mẹ và hóa trang là một phần của lễ hội ít nhất là từ thời kỳ đầu hiện đại, theo đó mọi người hóa trang đến từng nhà, đọc thơ để đổi lấy thức ăn. Trang phục có thể là một cách bắt chước và cải trang bản thân khỏi aos sí . Bói toán cũng là một phần quan trọng của lễ hội và thường liên quan đến các loại hạt và táo. Vào cuối thế kỷ 19, John Rhys và James Frazer cho rằng đó là "Năm mới của người Celtic", nhưng điều đó vẫn còn bị tranh cãi. Vào thế kỷ thứ 9, Giáo hội phương Tây xác nhận ngày 1 tháng 11 là ngày Lễ Các Thánh , có thể do ảnh hưởng của Alcuin , và ngày 2 tháng 11 sau đó trở thành Ngày Các Linh Hồn . Người ta tin rằng Samhain và All Saints'/All Souls' ảnh hưởng lẫn nhau và Halloween hiện đại .  Hầu hết các truyền thống Halloween của người Mỹ đều được kế thừa từ những người nhập cư Ireland và Scotland .  Các nhà văn học dân gian đã sử dụng cái tên 'Samhain' để chỉ phong tục 'Halloween' của người Gaelic cho đến thế kỷ 19. Kể từ cuối thế kỷ 20, những người tân ngoại giáo Celtic và người Wiccans đã coi Samhain, hoặc một cái gì đó dựa trên nó, như một ngày lễ tôn giáo. Từ nguyên Trong tiếng Gaelic Ailen và Scotland hiện đại tên là Samhain , trong khi tên tiếng Gaelic Manx truyền thống là Sauin .  Nó thường được viết với mạo từ xác định An tSamhain (Ailen), An t-Samhain (tiếng Gaelic Scotland) và Yn Tauin (Manx). ⟨ amhai ⟩ là một ngũ giác cho âm /əu̯ / . Các dạng cũ hơn của từ này bao gồm cách viết tiếng Gaelic của Scotland là Samhainn và Samhuinn .  Tên tiếng Gaelic của tháng 11 có nguồn gốc từ Samhain . Những cái tên này đều bắt nguồn từ Samain hoặc Samuin của người Ireland cổ và trung cổ , tên của lễ hội được tổ chức vào ngày 1 tháng 11 ở Ireland thời trung cổ, theo truyền thống có nguồn gốc từ Proto -Indo-European (PIE) *semo- ('mùa hè) ').  Tuy nhiên, như John T. Koch lưu ý, vẫn chưa rõ tại sao một lễ hội đánh dấu sự bắt đầu của mùa đông lại bao gồm từ 'mùa hè'.  Nhà ngôn ngữ học Joseph Vendryes cho rằng nó không liên quan, nói rằng mùa hè Celtic kết thúc vào tháng Tám.  Các nhà ngôn ngữ học Xavier Delamarre và Ranko Matasović lấy nó từ Proto-Celtic * samoni - (< PIE * smHon - 'đoàn tụ, hội họp'), mà ý nghĩa ban đầu được giải thích rõ nhất là 'hội họp, lễ hội của tháng đầu năm' (xem Tiếng Ailen cổ - samain 'bầy đàn'), có lẽ ám chỉ đến 'một cuộc tụ họp của người sống và người chết'. Lịch Coligny Xem thêm thông tin: Lịch Celtic Trên lịch Gaulish Coligny , có niên đại từ thế kỷ thứ 2 CN, tên tháng SAMONI được cho là có liên quan đến từ Samhain .  Tuy nhiên, SAMON[I] cũng có sự tương đồng mạnh mẽ với từ Proto-Celtic được tái tạo *samos , có nghĩa là "mùa hè", tương đương với từ được tái tạo cho mùa đông ( *gyemos ) có khả năng cùng nguồn gốc với tháng xuất hiện sáu tháng sau đó trên lịch, GIAMONI .  Một lễ hội nào đó có thể đã được tổ chức vào ngày thứ 17 của lễ Samonios: "ba đêm Samoni hôm nay" (Gaulish TRINOX SAMO[ SINDIU = trinoxtion Samoni sindiu ).  Điểm bắt đầu của lịch không rõ ràng. Nguồn gốc Samain hay Samuin là tên của lễ hội ( feis ) đánh dấu sự bắt đầu của mùa đông ở Gaelic Ireland . Nó được chứng thực trong văn học Ailen cổ sớm nhất , có niên đại từ thế kỷ thứ 9 trở đi. Đó là một trong bốn lễ hội theo mùa của người Gaelic: Samhain (~1 tháng 11), Imbolc (~1 tháng 2), Bealtaine (~1 tháng 5) và Lughnasa (~1 tháng 8). Samhain và Bealtaine, ở hai thời điểm đối diện nhau trong năm, được cho là quan trọng nhất. Ngài James George Frazer đã viết trong cuốn sách năm 1890 của ông, The Golden Bough: A Study in Magic and Religion , rằng ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 11 ít quan trọng đối với những người trồng trọt ở châu Âu nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với những người chăn nuôi thực hành chuyển đổi con người theo mùa . Vào đầu mùa hè, gia súc được lùa lên đồng cỏ mùa hè ở vùng cao, đầu mùa đông lại được dẫn về. Vì vậy, Frazer cho rằng lễ hội có nguồn gốc mục vụ . Một số ngôi mộ lối đi thời kỳ đồ đá mới ở Ireland được đặt theo hướng mặt trời mọc vào khoảng thời gian Samhain và Imbolc. Chúng bao gồm Gò Con tin ( Dumha na nGiall ) tại Đồi Tara ,  và Cairn L tại Slieve na Calliagh . Trong thần thoại Ireland Mặc dù thần thoại Ireland ban đầu là một truyền thống được nói ra nhưng phần lớn trong số đó cuối cùng đã được các tu sĩ Thiên chúa giáo viết ra vào thời Trung cổ .  Câu chuyện thế kỷ thứ mười Tochmarc Emire ("The Wooing of Emer") liệt kê Samhain là lễ hội đầu tiên trong bốn lễ hội theo mùa trong năm.  Văn học nói rằng hòa bình sẽ được tuyên bố, và có những cuộc tụ họp lớn nơi họ tổ chức hội họp, tiệc tùng, uống rượu,  và tổ chức các cuộc thi.  Những cuộc tụ họp này là bối cảnh phổ biến cho những câu chuyện cổ của Ireland.  Câu chuyện Echtra Cormaic ('Cuộc phiêu lưu của Cormac') kể rằng Lễ Tara được tổ chức vào dịp Samhain thứ bảy hàng năm, do Vua tối cao của Ireland chủ trì , trong đó các luật và nhiệm vụ mới được ban hành; bất cứ ai vi phạm luật được thiết lập trong thời gian này sẽ bị trục xuất. Theo thần thoại Ireland, Samhain (giống như Bealtaine ) là thời điểm những 'cánh cửa' dẫn đến Thế giới khác mở ra, cho phép những sinh vật siêu nhiên và linh hồn người chết đi vào thế giới của chúng ta; trong khi Bealtaine là lễ hội mùa hè dành cho người sống thì Samhain "về cơ bản là lễ hội dành cho người chết". The Boyhood Deeds of Fionn nói rằng sídhe (gò cổ tích hay cánh cổng dẫn đến Thế giới khác) "luôn mở tại Samhain".  Mỗi năm, người phun lửa Aillen xuất hiện từ Thế giới khác và đốt cháy cung điện của Tara trong lễ hội Samhain sau khi ru mọi người ngủ bằng âm nhạc của mình. Một Samhain, Fionn mac Cumhaill trẻ tuổi , vẫn tỉnh táo và giết Aillen bằng một ngọn giáo ma thuật, nhờ đó anh ta được phong làm thủ lĩnh của fianna . Trong một câu chuyện tương tự, một Samhain, Thế giới khác là Cúldubh xuất hiện từ gò mộ ở Slievenamon và bắt một con lợn quay. Fionn giết Cúldubh bằng một cú ném giáo khi anh ta quay lại gò đất. Ngón tay cái của Fionn bị kẹt giữa cánh cửa và cột khi nó đóng lại, và anh ấy đưa nó vào miệng để giảm bớt cơn đau. Vì ngón tay cái của anh ấy đã ở trong Thế giới khác nên Fionn được ban cho trí tuệ tuyệt vời. Điều này có thể đề cập đến việc tiếp thu kiến ​​thức từ tổ tiên. Acallam na Senórach ('Cuộc trò chuyện của các trưởng lão') kể về việc ba người sói nữ xuất hiện từ hang động Cruachan (một cổng Thế giới khác), mỗi người Samhain và giết gia súc như thế nào. Khi Cas Corach chơi đàn hạc, họ mang hình dạng con người và chiến binh fianna Caílte sau đó giết họ bằng một ngọn giáo. Một số câu chuyện cho rằng lễ vật hoặc lễ hiến tế được thực hiện tại Samhain. Trong Lebor Gabála Érenn (hay 'Sách về các cuộc xâm lược'), mỗi Samhain, người dân Nemed phải trao 2/3 số con cái, ngô và sữa của họ cho những người Fomorian quái dị . Người Fomorian dường như đại diện cho sức mạnh có hại hoặc hủy diệt của thiên nhiên; hiện thân của sự hỗn loạn, bóng tối, cái chết, tàn lụi và hạn hán.  Sự cống nạp này do người của Nemed thực hiện có thể đại diện cho một "sự hy sinh được đưa ra vào đầu mùa đông, khi sức mạnh của bóng tối và bệnh tàn lụi đang lên ngôi".  Theo Dindsenchas và Biên niên sử của bốn bậc thầy sau này —được viết bởi các tu sĩ Thiên chúa giáo — Samhain ở Ireland cổ đại được liên kết với một vị thần hoặc thần tượng tên là Crom Cruach . Các văn bản cho rằng đứa con đầu lòng sẽ bị hiến tế tại tượng đá Crom Cruach ở Magh Slécht . Người ta nói rằng Vua Tigernmas và 3/4 dân số của ông đã chết khi đang thờ cúng Crom Cruach ở đó một Samhain. Các vị vua huyền thoại Diarmait mac Cerbaill và Muirchertach mac Ercae mỗi người đều chết ba lần vào ngày Samhain, bao gồm bị thương, bị thiêu và chết đuối, và họ đã được báo trước. Trong câu chuyện Togail Bruidne Dá Derga ('Sự phá hủy nhà trọ của Dá Derga'), vua Conaire Mór cũng gặp cái chết của mình trên Samhain sau khi vi phạm geasa (những điều cấm kỵ hoặc điều cấm kỵ). Anh ta được cảnh báo về sự diệt vong sắp xảy ra của mình bởi ba kỵ sĩ bất tử là sứ giả của Donn , vị thần của người chết.  The Boyhood Deeds of Fionn kể về việc mỗi người đàn ông Samhain ở Ireland đi tán tỉnh một thiếu nữ xinh đẹp sống trong gò đất cổ tích trên Brí Éile (Đồi Croghan). Nó nói rằng mỗi năm sẽ có một người nào đó bị giết "để đánh dấu dịp này", bởi những người không rõ danh tính.  Một số học giả cho rằng những câu chuyện này gợi lại sự hy sinh của con người,  và lập luận rằng một số thi thể đầm lầy Ailen cổ đại (như Old Croghan Man ) dường như là những vị vua đã bị giết theo nghi thức,  một số trong số đó vào khoảng thời gian đó. của Samhain. Trong Echtra Neraí ('Cuộc phiêu lưu của Nera'), Vua Ailill của Connacht đặt cho tùy tùng của mình một bài kiểm tra lòng dũng cảm vào đêm Samhain. Anh ta đưa ra một giải thưởng cho bất cứ ai có thể lên được giá treo cổ và buộc một sợi dây quanh mắt cá chân của một người đàn ông bị treo cổ. Những con quỷ ngăn cản từng kẻ thách thức, những kẻ sợ hãi chạy về cung điện của nhà vua. Tuy nhiên, Nera đã thành công và người chết yêu cầu đồ uống. Nera cõng anh trên lưng và họ dừng lại ở ba ngôi nhà. Họ bước vào căn nhà thứ ba, nơi người chết uống rượu và nhổ vào những người chủ nhà, giết chết họ. Quay trở lại, Nera nhìn thấy một vị tiên đang đốt đại điện của nhà vua và tàn sát những người bên trong. Anh ta đi theo vật chủ thông qua một cánh cổng dẫn vào Thế giới khác. Nera biết rằng những gì anh nhìn thấy chỉ là hình dung về những gì sẽ xảy ra vào lễ Samhain tiếp theo trừ khi điều gì đó được thực hiện. Anh ta quay trở lại hội trường và cảnh báo nhà vua. Câu chuyện Aided Chrimthainn maic Fidaig ('The Killing of Crimthann mac Fidaig') kể về việc Mongfind giết anh trai cô, Vua Crimthann của Munster, để một trong những người con trai của cô có thể trở thành vua. Mongfind mời Crimthann một đồ uống có độc trong một bữa tiệc, nhưng anh yêu cầu cô uống nó trước. Không còn lựa chọn nào khác ngoài việc uống thuốc độc, cô chết vào đêm trước lễ Samhain. Nhà văn người Ireland gốc Trung lưu ý rằng Samhain còn được gọi là Féile Moingfhinne (Lễ hội Mongfind hoặc Mongfhionn) và rằng "phụ nữ và đám đông sẽ cầu xin cô ấy" tại Samhain. Nhiều sự kiện khác trong thần thoại Ireland xảy ra hoặc bắt đầu vào lễ Samhain. Cuộc xâm lược Ulster tạo nên hành động chính của Táin Bó Cúailnge ('Cuộc đột kích gia súc của Cooley') bắt đầu từ Samhain. Vì săn bắt gia súc thường là một hoạt động vào mùa hè nên cuộc xâm lược vào thời điểm trái mùa này đã khiến Ulstermen ngạc nhiên.  Trận Magh Tuireadh lần thứ hai cũng bắt đầu ở Samhain.  Morrígan và The Dagda gặp nhau và quan hệ tình dục trước trận chiến chống lại người Fomorian; bằng cách này, Morrígan đóng vai trò là nhân vật có chủ quyền và mang lại chiến thắng cho người dân Dagda, Tuatha Dé Danann . Trong Aislinge Óengusa ("Giấc mơ của Óengus") đó là khi anh và cô dâu sắp cưới của mình chuyển từ hình dạng chim sang hình dạng con người, và trong Tochmarc Étaíne ("The Wooing of Étaín') đó là ngày mà Óengus tuyên bố quyền sở hữu. vương quyền của Brú na Bóinne . Một số trang web ở Ireland được liên kết đặc biệt với Samhain. Mỗi Samhain, một loạt sinh vật ở thế giới khác được cho là xuất hiện từ Hang Cruachan ở Quận Roscommon .  Đồi Ward (hay Tlachtga) ở County Meath được cho là nơi diễn ra lễ hội Samhain lớn và đốt lửa trại;  pháo đài thời kỳ đồ sắt được cho là nơi nữ thần hay tu sĩ Tlachtga sinh ba và là nơi bà qua đời sau đó. Trong The Stations of the Sun: A History of the Ritual Year in Britain (1996), Ronald Hutton viết: "Không còn nghi ngờ gì nữa, cũng có những nghi lễ tôn giáo [ngoại đạo], nhưng không có câu chuyện nào từng miêu tả bất kỳ điều gì". Tài liệu tham khảo lịch sử duy nhất về các nghi lễ tôn giáo ngoại giáo là trong tác phẩm của Geoffrey Keating (mất năm 1644), nhưng không rõ nguồn gốc của ông. Hutton nói rằng có thể không có nghi thức tôn giáo nào được đề cập bởi vì, nhiều thế kỷ sau khi Cơ đốc giáo hóa, các tác giả không có ghi chép nào về chúng.  Hutton cho rằng Samhain có thể không có mối liên hệ đặc biệt nào với siêu nhiên. Anh ấy nói rằng các cuộc tụ họp của hoàng gia và các chiến binh trên Samhain có thể là bối cảnh lý tưởng cho những câu chuyện như vậy, giống như nhiều câu chuyện về Arthurian lấy bối cảnh tại các cuộc tụ họp lịch sự vào Giáng sinh hoặc Lễ Ngũ tuần. Phong tục lịch sử Samhain là một trong bốn lễ hội chính theo lịch Gaelic, đánh dấu sự kết thúc của vụ thu hoạch và bắt đầu mùa đông.  Phong tục Samhain được đề cập trong một số văn bản thời Trung cổ. Trong Serglige Con Culainn ('Cúchulainn's Sickbed'), người ta nói rằng lễ hội Ulaid ở Samhain kéo dài một tuần: chính Samhain, và ba ngày trước và sau. Nó liên quan đến những cuộc tụ họp lớn, nơi họ tổ chức hội họp, tiệc tùng, uống rượu và tổ chức các cuộc thi.  Togail Bruidne Dá Derga lưu ý rằng lửa được đốt ở Samhain và đá ném vào lửa.  Nó được đề cập trong Foras Feasa ar Éirinn của Geoffrey Keating , được viết vào đầu những năm 1600 nhưng dựa trên các nguồn thời Trung cổ trước đó, một số trong đó chưa được biết đến. Ông tuyên bố rằng lễ hội Tara được tổ chức một tuần vào mỗi dịp Samhain thứ ba khi các quý tộc và ollam của Ireland gặp nhau để đặt ra và đổi mới luật pháp cũng như tổ chức tiệc tùng.  Ông cũng tuyên bố rằng các druid đã đốt một đống lửa thiêng ở Tlachtga và hiến tế các vị thần, đôi khi bằng cách đốt những vật hiến tế của họ. Ông nói thêm rằng tất cả các đám cháy khác đã được dập tắt và thắp sáng lại từ đống lửa này. Đốt lửa nghi lễ Giống như Bealtaine, những đống lửa được đốt trên đỉnh đồi ở Samhain và có những nghi lễ liên quan đến chúng.  Vào đầu thời kỳ hiện đại, chúng phổ biến nhất ở các vùng thuộc Cao nguyên Scotland , trên Đảo Man, ở phía bắc và giữa xứ Wales, và một số vùng của Ulster .  F. Marian McNeill nói rằng trước đây họ là những người cần đốt lửa , nhưng phong tục này đã không còn nữa.  Tương tự như vậy, theo truyền thống chỉ có một số loại gỗ nhất định được sử dụng, nhưng các ghi chép sau này cho thấy nhiều loại vật liệu dễ cháy đã bị đốt cháy.  Có ý kiến ​​​​cho rằng đám cháy là một loại ma thuật bắt chước hoặc gây thiện cảm ; bắt chước Mặt trời, hỗ trợ "sức mạnh tăng trưởng" và kìm hãm sự suy tàn và bóng tối của mùa đông.  Chúng cũng có thể có ý nghĩa tượng trưng là "đốt cháy và tiêu diệt mọi ảnh hưởng có hại".  Các tài liệu từ thế kỷ 18 và 19 cho rằng lửa, khói và tro được coi là có khả năng bảo vệ và tẩy rửa. Ở Moray thế kỷ 19 , các cậu bé xin củi từ mỗi ngôi nhà trong làng để đốt lửa trại. Khi lửa được châm lên, "lần lượt từng thanh niên nằm xuống đất càng gần ngọn lửa càng tốt để không bị bỏng và trong tư thế sao cho khói cuốn vào người. Những người khác chạy qua. khói và nhảy qua anh ta". Khi lửa trại cháy, họ rải tro, tranh nhau xem ai sẽ rải tro nhiều nhất.  Ở một số khu vực, hai đống lửa sẽ được đốt cạnh nhau và người dân - đôi khi cùng với gia súc của họ - sẽ đi giữa chúng như một nghi lễ tẩy rửa. Người ta cho rằng xương của những con gia súc bị giết thịt đã được ném vào đống lửa. Người dân cũng mang ngọn lửa từ đống lửa về nhà của họ. Trong thế kỷ 19, ở một số vùng của Scotland, những ngọn đuốc đốt bằng linh sam hoặc cỏ được mang theo ánh nắng quanh nhà và cánh đồng để bảo vệ chúng.  Ở một số nơi, người ta đốt lửa trong lò sưởi vào đêm Samhain. Mỗi gia đình sau đó sẽ trang trọng thắp lại lò sưởi của mình từ đống lửa chung, nhờ đó gắn kết cộng đồng.  Nhà văn thế kỷ 17 Geoffrey Keating tuyên bố rằng đây là một truyền thống cổ xưa được thiết lập bởi các druid.  Việc dập tắt ngọn lửa cũ và mang lại ngọn lửa mới có thể là một cách xua đuổi cái ác, vốn là một phần trong lễ hội năm mới ở nhiều quốc gia. Bói toán Đốt lửa được sử dụng trong bói toán . Vào thế kỷ 18 Ochtertyre , một vòng đá—mỗi người một viên—được đặt xung quanh ngọn lửa, có lẽ trên một lớp tro. Sau đó mọi người cầm đuốc chạy xung quanh và “hưng phấn”. Vào buổi sáng, những viên đá được kiểm tra, nếu có viên nào bị thất lạc, người ta nói rằng người mà nó đại diện sẽ không sống được qua năm tháng. Một phong tục tương tự cũng được thấy ở phía bắc xứ Wales  và ở Brittany .  James Frazer cho rằng điều này có thể xuất phát từ "một phong tục lâu đời hơn là đốt chúng" (tức là hiến tế con người ) hoặc nó có thể luôn mang tính biểu tượng.  Bói toán có thể đã là một phần của lễ hội từ thời cổ đại,  và nó vẫn tồn tại ở một số vùng nông thôn. Tại các lễ hội gia đình trên khắp các vùng Gaelic và xứ Wales, nhiều nghi lễ nhằm mục đích bói toán tương lai của những người tụ tập, đặc biệt là liên quan đến cái chết và hôn nhân.  Táo và quả phỉ thường được sử dụng trong các nghi lễ và trò chơi bói toán này. Trong thần thoại Celtic , táo gắn liền với Thế giới khác và sự bất tử, trong khi hạt phỉ gắn liền với trí tuệ thần thánh.  Một trong những trò chơi phổ biến nhất là trò chơi lắc lư quả táo . Một cách khác liên quan đến việc treo một thanh gỗ nhỏ từ trần nhà ở độ cao ngang đầu, với một ngọn nến đang cháy ở một đầu và một quả táo treo ở đầu kia. Chiếc que được quay tròn và mọi người lần lượt cố gắng bắt quả táo bằng răng của mình.  Táo được gọt thành một dải dài, vỏ ném qua vai và hình dạng của nó được cho là chữ cái đầu tiên trong tên của người phối ngẫu tương lai. Hai hạt phỉ được nướng gần bếp lửa; một cái được đặt tên cho người rang chúng và cái còn lại cho người mà họ mong muốn. Nếu hạt nảy ra khỏi nhiệt thì đó là một điềm xấu, nhưng nếu hạt được rang lặng lẽ thì đó là điềm báo một trận đấu tuyệt vời.  Các món đồ được giấu trong thực phẩm — thường là bánh ngọt, thịt nướng , cranachan , champ hoặc sowans — và các phần của nó được phục vụ một cách ngẫu nhiên. Tương lai của một người đã được báo trước bởi món đồ họ tình cờ tìm thấy; ví dụ, một chiếc nhẫn có nghĩa là hôn nhân và một đồng xu có nghĩa là sự giàu có.  Bannock bột yến mạch mặn đã được nướng; người đó ăn ba miếng rồi đi ngủ trong im lặng mà không uống gì. Điều này được cho là dẫn đến một giấc mơ trong đó người phối ngẫu tương lai của họ đưa cho họ đồ uống để làm dịu cơn khát.  Lòng trắng trứng được thả vào nước và hình dạng đó báo trước số lượng con cái trong tương lai. Những người trẻ tuổi cũng đuổi theo lũ quạ và đoán một số điều này dựa trên số lượng loài chim hoặc hướng chúng bay. Tinh thần và linh hồn Samhain được coi là thời điểm danh nghĩa mà ranh giới giữa thế giới này và Thế giới khác có thể dễ dàng bị vượt qua hơn.  Điều này có nghĩa là aos sí , 'linh hồn' hay 'tiên nữ', có thể dễ dàng đi vào thế giới của chúng ta hơn. Nhiều học giả coi aos sí là tàn tích của các vị thần ngoại giáo và các linh hồn tự nhiên.  Tại Samhain, người ta tin rằng aos sí cần được tạo điều kiện để đảm bảo rằng người dân và gia súc của họ sống sót qua mùa đông. Đồ ăn thức uống sẽ được để bên ngoài cho aos sí ,  và một phần hoa màu có thể được để lại dưới đất cho họ. Một phong tục—được mô tả như một "ví dụ trắng trợn" về "nghi thức ngoại giáo còn tồn tại đến thời kỳ Cơ đốc giáo" —được ghi lại ở Outer Hebrides và Iona vào thế kỷ 17. Đêm 31/10, ngư dân và gia đình sẽ xuống bờ. Một người đàn ông sẽ lội xuống nước ngập đến thắt lưng, tại đây anh ta sẽ rót một cốc rượu bia và yêu cầu ' Seonaidh ' ('Shoney'), người mà anh ta gọi là "thần biển", ban cho họ một mẻ cá ngon. Phong tục này đã kết thúc vào những năm 1670 sau một chiến dịch của các bộ trưởng , nhưng buổi lễ chuyển sang mùa xuân và tồn tại cho đến đầu thế kỷ 19. Mọi người cũng đặc biệt chú ý để không xúc phạm đến aos sí và tìm cách xua đuổi bất kỳ ai ra ngoài để gây rối. Họ ở gần nhà hoặc nếu buộc phải đi trong bóng tối thì phải lộn ngược quần áo hoặc mang theo sắt hoặc muối để tránh xa.  Ở miền nam Ireland, người Samhain có phong tục dệt một cây thánh giá nhỏ bằng que và rơm được gọi là 'parshell' hoặc 'parshall', tương tự như cây thánh giá Brigid và con mắt của Chúa . Nó được cố định trên ngưỡng cửa để xua đuổi xui xẻo, bệnh tật và phù thủy và sẽ được thay thế vào mỗi dịp lễ Samhain. Người chết cũng được vinh danh tại Samhain. Đầu mùa đông có thể được coi là thời điểm thích hợp nhất để làm điều đó, vì đó là thời điểm thiên nhiên 'chết dần'.  Linh hồn của người chết được cho là sẽ quay trở lại nhà của họ để tìm kiếm sự hiếu khách. Chỗ ngồi đã được dọn sẵn ở bàn ăn và bên đống lửa để chào đón họ.  Niềm tin rằng linh hồn người chết sẽ trở về nhà vào một đêm trong năm và phải được xoa dịu dường như có nguồn gốc xa xưa và được tìm thấy ở nhiều nền văn hóa trên khắp thế giới.  James Frazer gợi ý, "Có lẽ một suy nghĩ tự nhiên rằng mùa đông đang đến gần sẽ xua đuổi những hồn ma đói khát, run rẩy, nghèo khổ khỏi những cánh đồng trơ ​​trụi và những khu rừng trụi lá để đến nơi trú ẩn trong ngôi nhà nhỏ".  Tuy nhiên, linh hồn của những người thân biết ơn có thể quay trở lại để ban phước lành dễ dàng như linh hồn của một người bị đối xử bất công có thể quay lại để trả thù . Làm mẹ và giả vờ Ở một số vùng, việc làm mẹ và hóa trang là một phần của lễ Samhain. Nó được ghi nhận lần đầu tiên ở Scotland thế kỷ 16  và sau đó ở các vùng của Ireland, Mann và xứ Wales.  Mọi người đi từ nhà này sang nhà khác trong trang phục hóa trang hoặc hóa trang, thường đọc thuộc lòng các bài hát hoặc câu thơ để đổi lấy thức ăn.  Nó có thể đã phát triển từ một truyền thống trong đó mọi người mạo danh aos sí , hoặc linh hồn của người chết, và thay mặt họ nhận lễ vật.  Việc mạo danh những linh hồn hoặc linh hồn này cũng được cho là để bảo vệ bản thân khỏi chúng.  SV Peddle gợi ý cho những người theo dõi "nhân cách hóa những linh hồn cũ của mùa đông, những người đòi phần thưởng để đổi lấy vận may".  McNeill gợi ý rằng lễ hội cổ xưa bao gồm những người đeo mặt nạ hoặc trang phục đại diện cho những linh hồn này và phong tục hiện đại bắt nguồn từ điều này.  Ở Ireland, trang phục đôi khi được mặc bởi những người đi thu thập đồ cho bữa tiệc Samhain trước khi màn đêm buông xuống. Ở Scotland, những chàng trai trẻ đến từng nhà với khuôn mặt đeo mặt nạ, che mặt, sơn hoặc bôi đen,  thường đe dọa sẽ làm trò nghịch ngợm nếu không được chào đón.  Điều này phổ biến vào thế kỷ 16 ở vùng nông thôn Scotland và kéo dài đến thế kỷ 20.  Có ý kiến ​​​​cho rằng những khuôn mặt bị bôi đen là do việc sử dụng tro của đống lửa để bảo vệ.  Ở Ireland vào cuối thế kỷ 18, những người nông dân mang theo gậy đi đến từng nhà trên đường Samhain để thu thập thực phẩm cho bữa tiệc. Charles Vallancey viết rằng họ nhân danh Thánh Colm Cille yêu cầu điều này , yêu cầu mọi người "bỏ bê béo và mang ra những con cừu đen ".  Ở các vùng phía nam Ireland trong thế kỷ 19, những người theo chủ nghĩa bao gồm một con ngựa có sở thích được gọi là Láir Bhán ( ngựa cái trắng ). Một người đàn ông phủ khăn trắng và mang đầu lâu ngựa được trang trí sẽ dẫn đầu một nhóm thanh niên thổi sừng bò từ trang trại này sang trang trại khác. Mỗi lần, họ đọc những câu thơ, một số trong đó "rất thích ngoại giáo", và người nông dân phải quyên góp thực phẩm. Bằng cách đó, anh ta có thể mong đợi vận may từ 'Muck Olla'; không làm như vậy sẽ mang lại bất hạnh.  Điều này giống với lễ rước Mari Lwyd (ngựa xám) ở Wales, diễn ra vào Midwinter . Ở xứ Wales, ngựa trắng thường được coi là điềm báo của cái chết.  Ở những nơi khác ở Châu Âu, trang phục, xác ướp và sở thích ngựa là một phần của các lễ hội hàng năm khác. Tuy nhiên, ở các vùng nói tiếng Celtic, chúng "đặc biệt thích hợp với một đêm mà người ta cho rằng các sinh vật siêu nhiên đang ở nước ngoài và có thể bị những kẻ lang thang của con người bắt chước hoặc xua đuổi". Hutton viết: "Khi bắt chước những linh hồn ác độc, từ giả vờ đến chơi khăm chỉ là một bước rất ngắn". Việc chơi khăm Samhain được ghi lại ở Cao nguyên Scotland từ năm 1736 và cũng phổ biến ở Ireland, khiến Samhain được đặt biệt danh là "Đêm nghịch ngợm" ở một số nơi.  Mặc trang phục hóa trang trong lễ Halloween lan sang Anh vào thế kỷ 20, cũng như phong tục chơi khăm, mặc dù đã có tục làm mẹ ở các lễ hội khác.  Vào thời điểm người Ireland và Scotland nhập cư ồ ạt xuyên Đại Tây Dương, vốn phổ biến Halloween ở Bắc Mỹ, Halloween ở Ireland và Scotland có truyền thống hóa trang và chơi khăm mạnh mẽ.  Trick-or-treat có thể xuất phát từ phong tục đi từng nhà để thu thập thực phẩm cho các bữa tiệc Samhain, nhiên liệu cho các buổi đốt lửa Samhain hoặc lễ vật cho aos sí . Ngoài ra, nó có thể xuất phát từ phong tục thu thập bánh linh hồn trong mùa Allhallowtide . [ cần dẫn nguồn ] "Sự chiếu sáng truyền thống dành cho những kẻ lừa đảo hoặc những kẻ chơi khăm ở nước ngoài vào ban đêm ở một số nơi được cung cấp bởi củ cải hoặc bánh nướng mangel , được khoét rỗng để làm đèn lồng và thường được chạm khắc với những khuôn mặt kỳ cục".  Chúng cũng được đặt trên bậu cửa sổ. Bởi những người làm ra chúng, những chiếc đèn lồng được cho là đại diện cho các linh hồn hoặc các sinh vật siêu nhiên,  hoặc được sử dụng để xua đuổi tà ma.  Những điều này phổ biến ở các vùng của Ireland và Cao nguyên Scotland vào thế kỷ 19.  Chúng cũng được tìm thấy ở Somerset (xem Đêm Punkie ). Vào thế kỷ 20, chúng lan sang các vùng khác của Anh và thường được gọi là đèn bí ngô . Chăn nuôi Theo truyền thống, Samhain là thời điểm để kiểm kê đàn gia súc và nguồn cung cấp thực phẩm. Gia súc được đưa xuống đồng cỏ mùa đông sau sáu tháng ở những đồng cỏ mùa hè cao hơn (xem phần chuyển đổi con người ).  Đó cũng là lúc lựa chọn con vật nào sẽ bị giết thịt. Phong tục này vẫn được nhiều người trồng trọt và chăn nuôi tuân theo.  Người ta cho rằng một số nghi lễ liên quan đến việc giết mổ đã được chuyển sang các ngày lễ mùa đông khác. Vào Ngày Thánh Martin (11 tháng 11) ở Ireland, một con vật — thường là gà trống , ngỗng hoặc cừu — sẽ bị giết thịt và một ít máu của nó sẽ vương vãi lên ngưỡng cửa ngôi nhà. Nó được dâng lên Thánh Martin , người có thể đã thay thế một hoặc nhiều vị thần,  và sau đó nó được ăn như một phần của một bữa tiệc. Phong tục này phổ biến ở các vùng của Ireland cho đến thế kỷ 19,  và được tìm thấy ở các vùng khác của Châu Âu. Vào dịp năm mới ở Hebrides , một người đàn ông mặc đồ da bò sẽ đi vòng quanh thị trấn theo hướng mặt trời . Một phần da sẽ bị cháy và mọi người sẽ hít phải khói.  Những phong tục này nhằm tránh xui xẻo, và những phong tục tương tự cũng được tìm thấy ở các vùng Celtic khác. Sự hồi sinh của Celtic Trong thời kỳ Phục hưng Celtic vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 , sự quan tâm đến Samhain và các lễ hội Celtic khác đã tăng lên. Ngài John Rhys cho rằng đó là "Năm mới của người Celtic". Ông suy luận nó từ văn hóa dân gian đương đại ở Ireland và xứ Wales, nơi mà ông cảm thấy "đầy phong tục Halloween gắn liền với những khởi đầu mới". Anh đến thăm Mann và nhận thấy rằng người Manx đôi khi gọi ngày 31 tháng 10 là "Đêm đầu năm mới" hay Hog-unnaa . Tochmarc Emire , được viết vào thời Trung cổ, tính năm xung quanh bốn lễ hội vào đầu các mùa và đặt Samhain vào đầu những lễ hội đó. Tuy nhiên, Hutton nói rằng bằng chứng cho thấy đây là ngày đầu năm mới của người Celtic hay người Gaelic là rất mỏng manh.  Lý thuyết của Rhys đã được phổ biến rộng rãi bởi Ngài James George Frazer , mặc dù đôi khi ông thừa nhận rằng bằng chứng không thuyết phục. Frazer cũng nói rằng Samhain từng là lễ hội của người Celtic ngoại đạo dành cho người chết và nó đã được Cơ đốc giáo hóa thành All Saints và All Souls.  Kể từ đó, Samhain được mọi người coi là Năm mới của người Celtic và là lễ hội cổ xưa của người chết. Ví dụ: lịch của Celtic League bắt đầu và kết thúc tại Samhain.
19858092
https://vi.wikipedia.org/wiki/Painkiller%20%28album%20c%E1%BB%A7a%20Judas%20Priest%29
Painkiller (album của Judas Priest)
Painkiller là album phòng thu thứ mười hai của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest, được phát hành ngày 14 tháng 9 năm 1990. Đây là album cuối của Judas Priest có sự tham gia của ca sĩ chính lâu năm Rob Halford, trước khi anh trở lại nhóm ở album Angel of Retribution (2005); và là album đầu tiên có sự góp mặt của tay trống Scott Travis. Thu âm Painkiller là album đầu tiên của Judas Priest có sự tham gia của tay trống Scott Travis thay thế cho tay trống gắn bó lâu năm Dave Holland vào năm 1989. Trước đây Travis từng là thành viên của ban nhạc Los Angeles Racer X; với tần suất sử dụng double kick dày đặc, Travis mang đến cho Judas Priest sắc thái âm thanh mới và nặng hơn. Painkiller được miêu tả là nhạc phẩm heavy metal và speed metal (do cường độ âm thanh tương đối dữ dội trong tác phẩm). Album được thu âm tại Miraval Studios, Brignoles, Pháp vào đầu năm 1990 và tiến hành trộn âm tại Wisseloord Studios, Hilversum, Hà Lan sau đó một năm. Tác phẩm do ban nhạc và Chris Tsangarides phối hợp sản xuất, đánh dấu lần đầu tiên kể từ album Killing Machine (1978), Judas Priest mới ngưng làm việc với Tom Allom và lần đầu tiên kể từ Sad Wings of Destiny (1976), Judas Priest và Tsangarides mới cộng tác cùng nhau. Don Airey được mời đảm nhận vị trí đánh keyboard trong bài "A Touch of Evil". Trong cuộc phỏng vấn vào năm 2020, Airey tiết lộ ông đã nhân đôi đa số phần bass trong album bằng cây đàn synthesizer Minimoog, để album có được thứ âm bass đặc sắc. Phát hành Mặc cho nhóm đã hoàn thành album vào tháng 3 năm 1990, lịch phát hành album bị trì hoãn do vụ xét xử thông điệp kích thích tiềm thức tốn nhiều giấy mực của báo chí, bắt đầu vào ngày 16 tháng 7 năm 1990. Ban nhạc là đối tượng bị kiện dân sự với cáo buộc các sản phẩm thu âm của họ phải chịu trách nhiệm cho việc hai cậu bé tìm đến tự sát ở Reno, Nevada vào ngày 23 tháng 12 năm 1985. Sau cùng vụ kiện bị bãi bỏ vào ngày 24 tháng 8 năm 1990. Sau khi kết thúc vụ kiện, cuối cùng ban nhạc đã phát hành album vào ngày 14 tháng 9 năm 1990 trên LP, cassette và CD. Album đã nhận được chứng chỉ Vàng của RIAA vào tháng 1 năm 1991. Đĩa CD đã qua đợt tái hậu kỳ được phát hành vào tháng 5 năm 2001, gồm bản thu trực tiếp bài "Leather Rebel" và bài hát chưa từng phát hành trước đó là "Living Bad Dreams". Album nhận được đề cử Grammy cho Trình diễn metal xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 33, để thất cử trước bản cover bài hát "Stone Cold Crazy" của Queen do Metallica thể hiện. Đón nhận Phản ứng của giới chuyên môn với Painkiller đa số là tích cực, đặc biệt từ cộng đồng nhạc metal. Steve Huey của Allmusic khen ngợi album bằng bình luận rằng đây là một trong những album hay nhất của Judas Priest' trong nhiều năm, và "vòng xoáy bộ gõ rền vang và (mang âm thanh sắc lẹm) của Travis thắp ngọn lửa ngay tức thì dưới mông các thành viên; Glenn Tipton và K.K. Downing dùng tốc độ xé toạc một câu riff một cách tàn khốc và hiểm độc; còn Rob Halford bắt đầu gào thét như một gã phù thủy độc địa, mang đến màn thể hiện có lẽ là tỏa ra âm thanh hiểm ác nhất sự nghiệp của anh. Đây là phát ngôn sửng sốt về mục đích âm nhạc dường như chẳng biết xuất hiện từ đâu, báo trước màn tái xuất có thể sánh với George Foreman." Mikesn của Sputnikmusic chấm album 5/5, nhận xét: "Painkiller chứa đầy những câu riff và lead khó phai từ Glenn và K.K. Một trong những khoảnh khắc tuyệt nhất của album đến từ những câu riff dữ dội kết hợp với giọng hát rền rĩ của Halford. Các bài hát trong Painkiller rất giàu năng lượng từ đầu tới cuối, và dường như từng thành viên đều thể hiện ăn khớp với nhau." Trên metal-archives.com, album nhận số điểm trung bình 92% dựa trên 26 bài đánh giá. Đa phần các bài trong album được trình bày trực tiếp trong Painkiller World Tour, riêng bài tiêu đề nằm trong số những tiết mục chủ chốt của ban nhạc. "Hell Patrol", "All Guns Blazing", "A Touch of Evil", "Night Crawler" và "Between the Hammer and the Anvil" đều tái bổ sung vào danh sách tiết mục ở những tour sau, còn "Metal Meltdown" và "Leather Rebel" thì bị ngừng diễn chỉ sau một ít tiết mục vào năm 1990. "One Shot at Glory" và phần intro "Battle Hymn" của bài là những ca khúc duy nhất trong album chưa được thể hiện trực tiếp, rồi đến tháng 8 năm 2021, khi họ nằm trong danh sách khách mời của Judas Priest tại nhạc hội Bloodstock Open Air. Chia tay Rob Halford Sau tour diễn cho album này, ca sĩ Rob Halford rời ban nhạc vào tháng 5 năm 1992 và hiếm khi tiếp xúc với các đồng đội cũ xuất thập niên 1990. Lý do là trong nội bộ ban nhạc ngày càng gia tăng mâu thuẫn, cùng với khao khát khám phá những miền âm nhạc của Halford bằng cách lập ban nhạc mới của chính anh là Fight. Về mặt hợp đồng, Halford nhận được yêu cầu rời Judas Priest để cho phép tiêu thụ bất cứ sản phẩm nào của Fight. Judas Priest vẫn ngưng hoạt động trong nhiều năm sau ngày Halford ra đi; tuy nhiên, sau cùng ban nhạc tái chắp vá, thu âm và đi tour, tuyển mộ được ca sĩ mới Tim "Ripper" Owens vào năm 1996 (Tim đã biểu diễn trong các album phòng thu Jugulator và Demolition). Danh sách ca khúc Xếp hạng Chứng nhận Chú thích Album speed metal Album của Judas Priest Album của Columbia Records Album năm 1990
19858098
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%E1%BB%91i%20n%E1%BA%A5u%20%C4%83n
Chuối nấu ăn
Chuối nấu ăn là tập hợp gồm nhiều giống chuối thuộc chi Musa có quả thường được sử dụng trong nấu ăn. Chuối này không thể ăn được khi tươi sống và thường giàu tinh bột. Các giống chuối nấu ăn được xếp thuộc nhóm AAB, AAA, ABB hoặc BBB. Chuối nấu ăn là thực phẩm thiết yếu tại nhiều vùng nhiệt đới trên thế giới, được xếp hạng quan trọng thứ mười trên thế giới, chiếm 0,3% lượng calo của loài người. Chuối nấu ăn là lương thực chính ở Tây và Trung Phi, các đảo Caribe, Trung Mỹ và Bắc Nam Mỹ. Các thành viên của chi Musa là loài bản địa ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á và châu Đại Dương. Chuối nấu ăn ra quả quanh năm, khiến chúng trở thành thực phẩm chứa tinh bột thiết yếu trong mọi mùa. Chuối nấu ăn được xem là trái cây giàu tinh bột với hương vị tương đối vừa phải và kết cấu mềm khi nấu chín. Chuối nấu ăn có thể được ăn tươi; tuy nhiên, cách chế biến phổ biến nhất là chiên, luộc hoặc xay nhuyễn thành bột hoặc bột nhào. Mô tả Chuối nấu ăn chứa nhiều tinh bột và ít đường hơn chuối thường, vì vậy chúng thường được nấu chín hoặc chế biến trước khi ăn. Chúng thường được luộc hoặc chiên khi ăn còn xanh và khi chế biến, chúng có thể được làm thành bột và chế biến thành các sản phẩm nướng như bánh ngọt, bánh mì và bánh kếp. Chuối nấu xanh cũng có thể được đun sôi và xay nhuyễn, sau đó dùng làm chất cô đặc cho súp. Chuối nấu ăn khi còn xanh, thịt quả thường cứng, vỏ thường cứng đến mức phải dùng dao cắt bỏ mới có thể loại bỏ được. Chuối nấu ăn chín vàng có thể được bóc vỏ như những quả chuối thường; thịt quả mềm hơn khi quả còn xanh chưa chín và một số tinh bột đã được chuyển hóa thành đường. Chúng có thể được ăn tươi nhưng không có hương vị thơm ngon như chuối thường nên thường được nấu chín. Khi chiên chuối vàng, chúng có xu hướng chuyển sang màu caramel, xoay sang màu nâu vàng. Quả cũng có thể được luộc, nướng, quay trong lò vi sóng hoặc nướng trên than củi, lột vỏ hoặc không lột vỏ. Chuối nấu ăn là thực phẩm thiết yếu tại nhiều vùng nhiệt đới trên thế giới, được xếp hạng quan trọng thứ mười trên thế giới, chiếm 0,3% lượng calo của loài người. Là một loại thực phẩm chủ yếu, chuối nấu ăn được xử lý theo cách tương tự như khoai tây, với hương vị và kết cấu trung tính tương tự khi quả chưa chín được nấu bằng cách hấp, luộc hoặc chiên. Do cây ra quả quanh năm nên chuối nấu ăn là loại lương thực chủ yếu đáng tin cậy, đặc biệt ở các nước đang phát triển có công nghệ lưu trữ, bảo quản và vận chuyển thực phẩm còn hạn chế. Ở Châu Phi, chuối và chuối nấu ăn cung cấp hơn 25% nhu cầu calo cho hơn 70 triệu người. Các đồn điền trồng chuối nấu rất dễ bị bão phá hủy vì cây không chịu được gió lớn. Một quả chuối nấu ăn trung bình cung cấp khoảng năng lượng thực phẩm. Là nguồn cung cấp kali và chất xơ dồi dào. Nhựa từ vỏ quả cũng như toàn bộ cây có thể làm ố quần áo, tay và khó loại bỏ. Phân loại Linnaeus ban đầu phân loại chuối thành hai loài chỉ dựa trên công dụng làm thực phẩm của chúng: Musa paradisiaca dùng làm chuối nấu ăn và Musa sapientum dùng làm chuối tráng miệng. Cả hai hiện nay được biết đến là con lai giữa loài Musa acuminata (bộ gen A) và Musa balbisiana (bộ gen B). Danh pháp được công bố trước đó, Musa × paradisiaca, hiện được sử dụng làm danh pháp khoa học cho tất cả các giống lai như vậy. Hầu hết các loại chuối nấu ăn hiện đại đều là cây tam bội vô sinh thuộc Nhóm AAB, đôi khi được gọi là "nhóm chuối nấu ăn". Các nhóm chuối nấu ăn quan trọng về mặt kinh tế khác bao gồm chuối Cao nguyên Đông Phi (phân nhóm Mutika/Lujugira) của Nhóm AAA và chuối nấu ăn Thái Bình Dương (bao gồm các phân nhóm Popoulo, Maoli và Iholena), cũng thuộc Nhóm AAB. Nhiều loại chuối nấu ăn được gọi là plantain trong tiếng Anh (/ˈplæntɪn/, /plænˈteɪn/, /ˈplɑːntɪn/) hoặc 'chuối xanh'. Trong nghiên cứu thực vật học, thuật ngữ "plantain" chỉ được sử dụng cho giống chuối thuộc phân nhóm Plantain, trong khi các giống chuối có tinh bột khác dùng để nấu ăn được gọi là "chuối nấu ăn". Phân nhóm Plantain là giống quả nấu ăn thuộc nhóm AAB, trong khi chuối nấu ăn là bất kỳ giống quả nấu ăn nào thuộc nhóm AAB, AAA, ABB hoặc BBB. Danh pháp khoa học hiện được chấp nhận cho tất cả các giống cây trồng trong những nhóm này là Musa × paradisiaca (trùng với chuối tiêu). Chuối Fe'i (Musa × troglodytarum) từ Quần đảo Thái Bình Dương thường được rang hoặc luộc để ăn và do đó được gọi một cách không chính thức là "plantain miền núi", nhưng chúng không thuộc về bất kỳ loài thực vật nào là nguồn gốc của tất cả các giống chuối hiện đại. Món ăn Chiên Chuối chiên ("Pisang goreng" trong tiếng Indonesia và tiếng Mã Lai) là một món ăn nhẹ từ chuối nấu ăn được chiên trong dầu dừa. Chuối chiên có thể được phủ bột hoặc chiên không cần bột. Đây là một món ăn nhẹ chủ yếu tìm được ở Indonesia, Malaysia, Singapore và Brunei. Ethakka appam, pazham (chuối) boli hoặc pazham pori là những thuật ngữ được sử dụng cho chuối chiên ở bang Kerala, Ấn Độ. Chuối thường được nhúng vào gạo ngọt và bột mì trắng rồi chiên trong dầu dừa hoặc dầu thực vật, tương tự như món chuối chiên. Món còn được gọi là bajji ở các bang miền Nam Ấn Độ, nơi chúng thường được phục vụ như một món ăn nhanh vị mặn. Ở Philippines, chuối chiên cũng được phục vụ với arroz a la cubana và thường được xem là một trong những thành phần đặc trưng của món ăn này. Chuối nấu ăn được sử dụng trong món aloco của Bờ Biển Ngà như nguyên liệu chính. Chuối được chiên, phủ một lớp nước sốt hành tây-cà chua, thường có cá nướng giữa chuối và nước sốt. Boli hay bole là thuật ngữ dùng để chỉ chuối nấu rang ở Nigeria. Chuối nấu thường được nướng và ăn kèm với cá nướng, đậu phộng xay và nước sốt dầu cọ nóng. Đây là món ăn có nguồn gốc từ người Yoruba ở Tây Nigeria. Nó phổ biến trong tầng lớp lao động như một bữa ăn trưa rẻ tiền. Chuối nấu ăn phổ biến ở Tây và Trung Phi, đặc biệt là Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bénin, Ghana và Nigeria; khi chuối nấu khi chín được chiên, thường được gọi là dodo ("bột-bột"). Chuối nấu khi chín thường được cắt chéo thành hình bầu dục lớn, sau đó chiên trong dầu cho đến khi có màu nâu vàng. Lát cắt chéo giúp tối đa hóa diện tích bề mặt, giúp chuối khi chiên chín đều. Chuối nấu chiên có thể ăn như vậy hoặc ăn kèm với món hầm hoặc nước sốt. Ở Ikire, một thị trấn thuộc bang Osun phía tây nam Nigeria, có một cách chế biến chuối nấu chiên đặc biệt được gọi là Dodo Ikire. Biến thể Dodo (món chuối nấu chiên) này được chế biến từ chuối nấu khi chín, cắt thành miếng nhỏ, rắc ớt rồi chiên trong dầu cọ đang sôi cho đến khi miếng chuối chuyển sang màu đen. Sau đó, chuối chiên được nhồi cẩn thận vào phễu nhựa rồi dùng chày gỗ ép lại và khi lấy ra sẽ có hình nón. Ở Ghana, món ăn này được gọi là kelewele và có thể được tìm như một món ăn nhẹ được bán ở các gánh hàng rong. Mặc dù có nhiều loại ngọt hơn và cay hơn, nhưng kelewele thường có hương vị hạt nhục đậu khấu, bột ớt, gừng và muối. Ở Tây bán cầu, tostones (còn được gọi là banann peze ở Haiti, tachinos hoặc chatinos ở Cuba, platanos verdes fritos hoặc fritos verdes ở Cộng hòa Dominica và patacones ở Colombia, Costa Rica, Ecuador, Honduras, Panama, Peru và Venezuela) là món chuối nấu chiên được chiên hai lần, thường được dùng như món ăn phụ, món khai vị hoặc bữa ăn nhẹ. Chuối nấu được cắt thành miếng dài và chiên trong dầu. Sau đó, các miếng này được loại bỏ và đập riêng lẻ xuống còn khoảng một nửa chiều dài ban đầu. Cuối cùng, các miếng được chiên lại rồi nêm gia vị, thường với muối. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Cuba, Puerto Rico và Cộng hòa Dominica, tostones được nhúng vào nước sốt Creole từ thịt gà, lợn, bò hoặc tôm trước khi ăn. Ở Haiti, bannann peze thường được phục vụ với pikliz, một loại gia vị giống như món cải cắt trộn được làm từ bắp cải, hành tây, cà rốt và ớt Scotch bonnet. Ở Nicaragua, bánh mì nướng thường được phục vụ với pho mát chiên (Tostones con queso) và đôi khi với đậu chiên. Trong khi tên tostones được sử dụng để mô tả loại thực phẩm này khi được chế biến tại nhà, thì ở một số quốc gia Nam Mỹ, từ này cũng mô tả lát chuối nấu, thường được mua từ cửa hàng. Ở miền tây Venezuela, phần lớn Colombia và Amazon thuộc Peru, patacones là một biến thể thường gặp của tostones. Chuối nấu ăn được cắt thành từng miếng dài và chiên trong dầu, sau đó dùng để làm bánh mì kẹp với thịt lợn, thịt bò, thịt gà, rau và sốt cà chua. Chúng có thể được chế biến bằng chuối nấu ăn patacon verde chưa chín hoặc patacon amarillo chín. Tostones ở Cộng hòa Dominica chỉ được chiên một lần và dày hơn lát cắt chiên. Mặc dù hầu hết các quốc gia Latinh đều có tên địa phương cho tostones, nhưng đây vẫn là tên gọi phổ biến ở tất cả các nước Mỹ Latinh. Chifles là thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha được sử dụng ở Peru và Ecuador để chỉ chuối nấu ăn còn xanh được cắt lát chiên (dày ). Cũng được dùng để mô tả lát chuối nấu được thái mỏng hơn. Ở Nicaragua, chúng được gọi là "tajadas" và được thái mỏng theo chiều dài. Chúng thường được phục vụ cùng với nhiều món ăn, bao gồm cả fritanga và được bán theo từng túi. Ở Honduras, Venezuela và miền Trung Colombia, những lát chuối chín chiên được gọi là tajadas. Chúng là phong tục trong hầu hết các bữa ăn điển hình, chẳng hạn như pabellón crioche của Venezuela. Người chủ nhà hoặc người phục vụ cũng có thể bày biện món như barandas (lan can bảo vệ), theo tiếng lóng thông thường, vì những lát cắt dài thường được đặt trên các mặt của một món ăn đầy đủ và do đó trông giống như vậy. Một số biến thể bao gồm thêm mật ong hoặc đường và chiên các lát trong bơ để có được caramel vàng kim; kết quả có vị ngọt hơn và mùi dễ chịu đặc trưng. Những lát cắt tương tự được gọi là amarillos và fritos maduros lần lượt ở Puerto Rico, Cuba và Cộng hòa Dominica. Ở Panama, tajadas được ăn hàng ngày cùng với cơm trắng, thịt và đậu, do đó trở thành một phần thiết yếu trong chế độ ăn của người Panama, cũng như ở Honduras. Ngược lại, ở Nicaragua, tajadas là những lát chuối nấu khi chưa chín được chiên và được phục vụ theo truyền thống kèm món fritanga, với thịt lợn chiên hoặc carne asada, hoặc ăn riêng trên lá chuối xanh, với salad bắp cải hoặc pho mát tươi hoặc chiên. Trên bờ biển Caribe của Colombia, tajadas từ chuối nấu còn xanh chiên được tiêu thụ cùng với thịt nướng và là món ăn tương đương với khoai tây chiên kiểu Pháp của Châu Âu và Bắc Mỹ. Sau khi loại bỏ vỏ, maduro có thể được thái lát (dày từ ) và chiên ngập dầu cho đến khi có màu vàng nâu hoặc tùy theo sở thích. Ở Cộng hòa Dominica, Ecuador, Colombia, Honduras (nơi chúng thường được ăn với kem chua bản địa) và Venezuela, món ăn nướng trong lò, đôi khi với quế. Ở Puerto Rico, plátanos maduros nướng thường được ăn vào bữa sáng và ăn kèm với trứng (chủ yếu là trứng tráng với pho mát), chorizo hoặc thịt xông khói. Chỉ có muối được thêm vào chuối nấu còn xanh. Tacacho là món chuối nướng của người Amazon có nguồn gốc từ Peru. Nó thường được phục vụ con cecina, với một ít thịt lợn. Ở Venezuela, yo-yo là một món ăn truyền thống được làm từ hai lát ngắn của chuối nấu khi chín được chiên (xem Tajadas) đặt chồng lên nhau, với pho mát trắng mềm của địa phương ở giữa (theo kiểu giống bánh sandwich) và được cố định bằng tăm. Bố cục này được nhúng vào trứng đã đánh và chiên lại cho đến khi phô mai tan chảy và yo-yo có màu vàng đậm. Chúng được phục vụ như món phụ hoặc món khai vị. Luộc Eto là một món ăn truyền thống của Ghana được chế biến bằng cách luộc và nghiền khoai lang hoặc chuối nấu ăn và thường thưởng thức với trứng luộc, lạc (đậu phộng) và quả bơ thái lát. Đối với loại chuối nấu có tên là 'Boodie eto', chuối có thể được sử dụng khi chưa chín, hơi chín hoặc chín hoàn toàn. Về mặt văn hóa, eto được cho cô dâu ăn vào ngày cưới, nhưng giờ đây cũng là một món ăn phổ biến được thưởng thức ngoài những dịp đặc biệt. Món mangú truyền thống của Cộng hòa Dominica bao gồm chuối nấu còn xanh gọt vỏ và luộc chín, nghiền với nước nóng để đạt độ cứng hơn một chút so với khoai tây nghiền. Theo truyền thống, ăn món vào bữa sáng, phủ hành đỏ xào giấm táo và kèm theo trứng chiên, pho mát chiên hoặc xúc xích bologna chiên, được gọi là xúc xích salami Dominica. Cháo chuối nấu cũng là một món ăn phổ biến khắp vùng Caribe, trong đó chuối nấu được luộc với sữa, quế và nhục đậu khấu để tạo thành món cháo đặc thường được dùng vào bữa sáng. Ở Uganda, chuối nấu ăn được gọi là matooke hoặc matoke, đây cũng là tên của món chuối nấu hầm được chế biến rộng rãi ở Uganda, Tanzania, Rwanda và miền đông Congo. Chuối nấu ăn (cụ thể là chuối Cao nguyên Đông Phi) được gọt vỏ, bọc trong lá cây và cho vào nồi nấu (sfuria) khi thân cây đã được tách bỏ lá. Sau đó, nồi được đặt trên lửa than và matoke được hấp trong vài giờ. Khi chưa nấu chín, matoke có màu trắng và khá cứng, nhưng khi nấu sẽ mềm và có màu vàng. Matoke sau đó được nghiền nát trong khi vẫn còn bọc trong lá và dùng kèm với nước sốt làm từ rau, đậu phộng xay hoặc một số loại thịt như dê hoặc thịt bò. Cayeye, còn được gọi là Mote de Guineo, là một món ăn truyền thống của Colombia từ Bờ biển Caribe của đất nước. Cayeye được làm bằng cách nấu những quả chuối thường hoặc chuối nấu ăn khi còn xanh, nhỏ, trong nước, sau đó nghiền và trộn chúng với refrito, làm từ hành, tỏi, ớt chuông đỏ, cà chua và achiote. Cayeye thường được phục vụ cho bữa sáng với pho mát Colombia tươi bào (Queso Costeño) và cá chiên, tôm, cua hoặc thịt bò. Phổ biến nhất là Cayeye với phô mai tươi, bơ và trứng chiên bên trên. Xay bột Ở Puerto Rico, mofongo được làm bằng cách nghiền chuối nấu chiên trong cối với chicharrón hoặc thịt xông khói, tỏi, dầu ô liu. Bất kỳ loại thịt, cá, động vật có vỏ, rau, gia vị hoặc thảo mộc cũng có thể được thêm vào. Hỗn hợp thu được được nặn thành hình trụ có kích thước khoảng hai nắm tay và ăn khi còn ấm, thường là với nước luộc gà. Mofongo relleno được phủ sốt Creole thay vì ăn kèm với nước luộc gà. Nước sốt Creole có thể gồm thịt bò hầm, thịt gà hoặc hải sản; được đổ vào một điểm trũng ở giữa, tạo hình bằng thìa phục vụ, trong mofongo. Chuối xanh nghiền và yautias cũng được sử dụng để tạo hình masa, một nguyên liệu phổ biến cho các món ăn như alcapurria, một loại đồ chiên mặn. Fufu de platano là món ăn trưa truyền thống và rất phổ biến ở Cuba. Về cơ bản giống với món mofongo của Puerto Rico. Đây là một món fufu được làm bằng cách đun sôi chuối nấu trong nước và nghiền bằng nĩa. Sau đó, fufu được trộn với nước luộc gà và sofrito, một loại nước sốt làm từ mỡ lợn, tỏi, hành, tiêu, sốt cà chua, một chút giấm và thì là. Kết cấu của món fufu Cuba tương tự như món mofongo được ăn ở Puerto Rico, nhưng nó không được vo thành viên hoặc chiên. Fufu cũng là một món ăn truyền thống phổ biến có từ hàng thế kỷ trước được chế biến ở Côte d'Ivoire, Ghana, Nigeria, Cameroon và các quốc gia Tây và Trung Phi khác. Món được làm theo cách tương tự như món fufu của Cuba, nhưng được giã nhỏ và có một lớp dính dày, kết cấu giống như bột bả, sau đó được vo thành viên. Fufu Tây Phi đôi khi được làm riêng bằng sắn, khoai mỡ hoặc làm bằng chuối nấu kết hợp với sắn. Món khác Mặc dù chuối nấu có nhiều tinh bột hơn và do đó thường được sử dụng trong các món mặn, nhưng nhiều món tráng miệng của Philippines cũng sử dụng chuối nấu ăn làm nguyên liệu chính, chẳng hạn như: Xiên chuối - chuối saba chín chiên phủ đường caramel. Binignit - món súp tráng miệng làm từ gạo nếp trong nước cốt dừa với chuối saba chín là một trong những nguyên liệu chính. Ginanggang - chuối saba nướng phủ bơ thực vật và đường. Maruya - bánh chuối chiên làm từ chuối saba và bột bánh. Minatamis na saging - chuối saba ninh trong siro ngọt. Hiếm khi được ăn một mình mà thay vào đó được dùng làm thành phần trong các món tráng miệng khác, đặc biệt là halo halo.. Pritong saging - chuối saba chín chiên. Pinasugbo - chuối thái lát mỏng phủ đường caramel và hạt vừng rồi chiên cho đến khi giòn. Saba con hielo - một món tráng miệng đá bào chủ yếu sử dụng minatamis na saging và sữa. Turon - một loại món tráng miệng (món cuốn) làm từ chuối saba chín bọc trong lớp bánh crepe mỏng và chiên giòn. Ở Ecuador, chuối được luộc, nghiền nhuyễn, tráng và chiên thành majado. Món ăn này thường được phục vụ với một tách cà phê và bít tết, cá hoặc phô mai bào. Là món ăn sáng phổ biến. Majado cũng được dùng làm nguyên liệu để chế biến món tigrillo và bolones. Để chế biến món tigrillo, majado được trộn với tóp mỡ lợn, trứng, pho mát, hành lá, rau mùi tây và ngò. Để chế biến bolones, majado được trộn với pho mát, tóp mỡ hoặc hỗn hợp cả hai. Hỗn hợp thu được sau đó được tạo hình dạng cầu và rồi chiên ngập dầu. Cả tigrillo và bolones thường được phục vụ cùng một tách cà phê. Chế phẩm khác Lát mỏng Sau khi loại bỏ vỏ, quả chưa chín có thể được thái lát mỏng và chiên ngập trong dầu nóng để tạo thành lát chuối. Chế phẩm mỏng từ chuối nấu được gọi là tostones, patacones hoặc plataninas ở một số quốc gia Trung Mỹ và Nam Mỹ, platanutres ở Puerto Rico, mariquitas hoặc chicharritas ở Cuba và chifles ở Ecuador và Peru. Ở Cuba, Cộng hòa Dominica, Guatemala, Puerto Rico và Venezuela, tostones thay vào đó dùng để chỉ những miếng chả dày hơn được chiên hai lần (xem bên dưới). Ở Cuba, lát chuối nấu được gọi là mariquitas. Chúng được thái mỏng và chiên trong dầu cho đến khi vàng óng. Đây là món khai vị phổ biến được phục vụ cùng với món chính. Ở Colombia, chúng được gọi là platanitos và được ăn cùng với suero atollabuey như một món nhẹ. Tostada dùng để chỉ một loại chuối nấu còn xanh, chưa chín đã được cắt thành nhiều phần, chiên, dạt mỏng, chiên lại và rắc muối. Những chiếc bánh tostadas này thường được phục vụ như một món phụ hoặc món nhẹ. Chúng còn được gọi là tostones hoặc patacones ở nhiều nước Mỹ Latinh. Ở Honduras, lát chuối được gọi là tajadas, có thể cắt theo chiều dọc để tạo thành biến thể được gọi là thanh chuối. Chiên lát mỏng trong dầu dừa và rắc muối, được gọi là upperi hoặc kaya varuthathu, là một món ăn nhẹ ở Nam Ấn Độ ở Kerala. Chúng là món quan trọng trong sadya, một bữa tiệc chay được chuẩn bị trong các dịp lễ hội ở Kerala. Lát mỏng chiên thường được dán nhãn "lát chuối nấu" khi chúng được làm từ chuối nấu còn xanh có vị tinh bột, giống như khoai tây chiên. Ở Tamil Nadu, một biến thể mỏng được làm từ chuối nấu còn xanh được dùng để làm lát mỏng chiên tẩm muối, bột ớt và asafoetida. Trong ngôn ngữ Marathi miền Tây/miền Trung Ấn Độ, chuối nấu ăn được gọi là rajeli kela (nghĩa bóng là chuối "cỡ lớn") và thường được dùng để làm lát mỏng chiên. Bột khô Chuối nấu ăn cũng được sấy khô và nghiền thành bột; "bột chuối" là một loại thực phẩm quan trọng. Ở miền nam Ấn Độ, bột chuối khô được trộn với một ít bột hạt thì là rồi đun sôi trong sữa hoặc nước để làm thức ăn cho trẻ ăn cho đến khi trẻ được một tuổi. Đồ uống Ở Peru, chuối nấu ăn được luộc và trộn với nước, gia vị và đường để làm chapo. Ở Kerala, chuối nấu khi chín được luộc với sago, nước cốt dừa, đường và gia vị để làm bánh pudding. Xốt Philippines chế biến chuối saba thành xốt chuối độc đáo. Ban đầu món được phát minh vào Thế chiến thứ hai để thay thế cho xốt cà chua. Dinh dưỡng Chuối nấu ăn có 32% carbohydrate, 2% chất xơ và 15% đường, 1% protein, 0,4% chất béo và 65% nước, đồng thời cung cấp năng lượng thực phẩm trên trong một ngày theo khẩu phần tham chiếu (bảng). Chuối nấu còn tươi là nguồn tuyệt vời (20% hoặc cao hơn Giá trị hàng ngày, DV) chứa vitamin B6 (23% DV) và vitamin C (22% DV), đồng thời là nguồn cung cấp magiê và kali tốt (10–19% DV) (bảng). Chứa ít beta-carotene (457 microgam trên 100 gram), chuối nấu ăn không phải là nguồn cung cấp vitamin A tốt (bảng). So với thực phẩm thiết yếu khác Bảng sau đây cho thấy hàm lượng dinh dưỡng của chuối nấu ăn tươi thô và các loại thực phẩm thiết yếu khác ở dạng tươi thô tính theo trọng lượng khô để tính đến hàm lượng nước khác nhau của chúng. Dị ứng Dị ứng với chuối và chuối nấu ăn xảy ra với các điểm đặc trưng của dị ứng thực phẩm hoặc hội chứng trái cây có mủ, bao gồm ngứa và sưng nhẹ môi, lưỡi, vòm miệng hoặc cổ họng, nổi mẩn da, khó chịu ở dạ dày hoặc sốc phản vệ. Trong số hơn 1000 protein được xác định ở loài Musa có rất nhiều chất gây dị ứng protein được mô tả trước đây. Xem thêm Danh sách giống chuối Danh sách món ăn từ chuối Phân nhóm chuối Cavendish Chuối Gros Michel Matoke Musa balbisiana Chuối Rhino Horn Chuối saba Tham khảo Liên kết ngoài Musapedia: "The banana knowledge compendium", maintained by ProMusa CGIAR's RTB Research Program Banana Page Banana and Plantain at the International Institute of Tropical Agriculture (IITA) Chuối Ẩm thực châu Phi Ẩm thực México Ẩm thực Guatemala Họ Chuối Ẩm thực Puerto Rico Ẩm thực Nigeria Ẩm thực Ghana Ẩm thực Haiti Ẩm thực Cuba Ẩm thực châu Á Nông nghiệp nhiệt đới Thực vật lai ghép Trái cây nhiệt đới Rau ăn quả
19858103
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cool
Cool
Cool có thể đề cập đến: Mát mẻ, nhiệt độ tương đối thấp Cool ngầu, lối thẫm mỹ về thái độ, hành vi và phong cách Cool, Texas, Hoa Kỳ Cool jazz, thể loại nhạc
19858104
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20phi%20x%E1%BB%A9%20Conti
Thân vương phi xứ Conti
Thân vương phi xứ Conti là tước hiệu được giữ bởi vợ của Thân vương xứ Conti từ năm 1582 đến năm 1614 và từ năm 1654 cho đến năm 1803. Thân vương phi xứ Conti Lần tấn phong đầu tiên Lần tấn phong thứ hai Ghi chú Gia tộc Conti Khởi đầu năm 1582 ở Pháp
19858110
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1m%20m%E1%BB%A5c%20Kyiv%20v%C3%A0%20to%C3%A0n%20Ukraina
Tổng giám mục Kyiv và toàn Ukraina
Tổng giám mục Kyiv và toàn Ukraina (chữ Ukraina: Митрополит Київський і всієї України, chữ Anh: Metropolitan of Kyiv and All Ukraine), là tổng giám mục đô thành, lãnh tụ của Giáo hội Chính thống giáo Ukraina. Chức sắc tổng giám mục này được thiết lập và phong Thánh tại Hội nghị Thống nhất Giáo hội Chính thống giáo Ukraina năm 2018 ở Kyiv, Ukraina. Tổng giám mục hiện nhiệm là Epiphanius I (en). Chú thích Lịch sử Chính thống giáo Đông phương Lịch sử Kitô giáo ở Ukraina Chức danh giáo hội Tổng giám mục Kyiv và toàn Nga
19858112
https://vi.wikipedia.org/wiki/U-1%20%28t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20%C4%90%E1%BB%A9c%29%20%281935%29
U-1 (tàu ngầm Đức) (1935)
U-1 là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm duyên hải , và là chiếc tàu ngầm đầu tiên được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-1 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được huy động vào tuần tra chiến tranh do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-1 bị mất do va phải thủy lôi của Anh tại Bắc Hải vào ngày 6 tháng 4, 1940. Thiết kế và chế tạo Tàu ngầm Type II được thiết kế dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế bởi công ty Hà Lan NV Ingenieurskantoor voor Scheepsbouw Den Haag (I.v.S), Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có . Chúng có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước . Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính . Các con tàu có thể lặn đến độ sâu . Chúng đạt được tốc độ tối đa trên mặt nước và khi lặn, với tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường , và ở tốc độ khi lặn. Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ. U-1 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 11 tháng 2, 1935, hạ thủy vào ngày 15 tháng 6, 1935 và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 29 tháng 6, 1935 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Klaus Ewerth, và một thủy thủ đoàn được huấn luyện tại Hà Lan. Lịch sử hoạt động Hoạt động trước chiến tranh của U-1 không có gì nổi bật. Nó mang tiếng là một con tàu kém, được chế tạo hấp tấp kết hợp với kỹ thuật không phù hợp làm cho con tàu chậm chạp, rò rỉ và không thuận tiện. Khi Thế Chiến II sắp xảy ra, đã có kế hoạch cho nó cùng các tàu chị em ngừng hoạt động sử dụng như những tàu huấn luyện. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-1 được huy động vào ngày 29 tháng 3, 1940 để đối phó tàu bè Anh ngoài khơi Na Uy, trong phạm vi hoạt động hiệu quả của con tàu. Nó không tìm thấy mục tiêu trong chuyến tuần tra đầu tiên, rồi lại được phái đi vào ngày 4 tháng 4 để chuẩn bị cho Chiến dịch Weserübung, hoạt động chiếm đóng Na Uy. U-1 gửi một bức điện vô tuyến ngắn vào ngày 6 tháng 4 để báo cáo vị trí của nó, và sau đó mất tích. Con tàu đã trúng phải thủy lôi tại "Bãi mìn số 7" do các tàu khu trục Anh , , và rải tại Bắc Hải về phía Bắc Terschelling. Toàn bộ phần phía sau của con tàu nổ tung và nó đắm tại tọa độ , bị tổn thất nhân mạng toàn bộ thủy thủ đoàn. Xác tàu đắm của U-1 được các thợ lặn tìm thấy vào tháng 6, 2007. Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Tàu ngầm Type II Tàu ngầm của Hải quân Đức trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1940 U-boat bị đánh chìm bởi thủy lôi U-boat bị đánh chìm năm 1940 Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại Bắc Hải Tàu thủy năm 1935
19858114
https://vi.wikipedia.org/wiki/U-1%20%28t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20%C4%90%E1%BB%A9c%29
U-1 (tàu ngầm Đức)
Ít nhất bốn tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên U-1: (1906) là tàu ngầm U-boat đầu tiên của Đức, hoạt động như một tàu huấn luyện trong Thế Chiến I, và hiện đang được bảo tồn như tàu bảo tàng tại Bảo tàng Đức ở Munich Trong Thế Chiến I, Đức còn có các tàu ngầm với tên tương tự: là một tàu ngầm duyên hải hạ thủy năm 1915; chuyển cho Áo-Hung và đổi tên thành U-10 trước khi bị đánh chìm năm 1918 là một tàu ngầm rải mìn hạ thủy năm 1915 và bị đánh chìm năm 1917 U-1 (1935) là chiếc dẫn đầu của hạ thủy năm 1935, hoạt động trong Thế Chiến II và bị mất do trúng thủy lôi năm 1940 U-1 (S180) (1961) là một hạ thủy năm 1961 và bị tháo dỡ năm 1967 U-1 (S180) (1967) là một hạ thủy năm 1967 và bị bán năm 1991 Xem thêm là chiếc dẫn đầu lớp tàu ngầm U-1 của Hải quân Áo-Hung Tên gọi tàu chiến Hải quân Đức
19858117
https://vi.wikipedia.org/wiki/U-2%20%28t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20%C4%90%E1%BB%A9c%29%20%281935%29
U-2 (tàu ngầm Đức) (1935)
U-2 là một tàu ngầm duyên hải được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-2 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện hai chuyến tuần tra chiến tranh trước khi quay lại vai trò huấn luyện, và bị mất do va chạm với tàu đánh cá trong biển Baltic vào ngày 8 tháng 4, 1944. Thiết kế và chế tạo Tàu ngầm Type II được thiết kế dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế bởi công ty Hà Lan NV Ingenieurskantoor voor Scheepsbouw Den Haag (I.v.S), Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có . Chúng có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước . Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính . Các con tàu có thể lặn đến độ sâu . Chúng đạt được tốc độ tối đa trên mặt nước và khi lặn, với tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường , và ở tốc độ khi lặn. Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ. U-2 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 11 tháng 2, 1935, hạ thủy vào ngày 1 tháng 7, 1935 và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 25 tháng 7, 1935 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hermann Michahelles. Lịch sử hoạt động U-2 hầu như chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được hai chuyến tuần tra trong chiến tranh vào năm 1940 trước khi quay lại vai trò huấn luyện. Vào ngày 8 tháng 4, 1944, U-2 bị tai nạn va chạm với tàu đánh cá Đức Helmi Söhle và bị đắm về phía Tây Pillau (nay là Baltiysk, thuộc tỉnh Kaliningrad, Liên bang Nga), tại tọa độ . 17 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng do tai nạn, 18 người sống sót được giải cứu. Xác tàu được trục vớt vào ngày hôm sau và con tàu bị rút đăng bạ vào ngày 9 tháng 4, 1944. Tham khảo Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Tàu ngầm Type II Tàu ngầm của Hải quân Đức trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1944 U-boat bị chìm do tai nạn U-boat bị đánh chìm năm 1940 Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại biển Baltic Tàu thủy năm 1935
19858118
https://vi.wikipedia.org/wiki/U-2%20%28t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20%C4%90%E1%BB%A9c%29
U-2 (tàu ngầm Đức)
Ít nhất bốn tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên U-2: là một tàu ngầm của Đức hạ thủy năm 1908, hoạt động như một tàu huấn luyện trong Thế Chiến I và bị tháo dỡ năm 1919 Trong Thế Chiến I, Đức còn có các tàu ngầm với tên tương tự: là một tàu ngầm duyên hải hạ thủy năm 1915 và bị tháo dỡ năm 1919 là một tàu ngầm rải mìn hạ thủy năm 1915 và bị đánh chìm ngày 30 tháng 6, 1915 U-2 (1935) là một hạ thủy năm 1935, hoạt động trong Thế Chiến II và bị mất do tai nạn va chạm năm 1944 U-2 (S181) (1962) là một hạ thủy năm 1962 và bị tháo dỡ năm 1967 U-2 (S181) (1966) là một hạ thủy năm 1966 và bị bán năm 1991 Xem thêm là một tàu ngầm lớp U-1 của Hải quân Áo-Hung Tên gọi tàu chiến Hải quân Đức
19858128
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BA%A7u
Ngầu
Ngầu có thể đề cập đến: Cool ngầu, lối thẫm mỹ về thái độ, hành vi và phong cách Độ mờ đục, đặc tính hoặc mức độ ngăn chặn sự truyền ánh sáng Cách nói khác của ngưu, nghĩa là trâu, bò
19858129
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BA%ADp%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%207%20N%E1%BB%A5%20C%C6%B0%E1%BB%9Di%20Xu%C3%A2n
Danh sách tập chương trình 7 Nụ Cười Xuân
Khách mời Người chơi Mùa 1 Tập 1: Sam Tập 2: Hồ Việt Trung Tập 3: Lê Giang Tập 4: NSND Ngọc Giàu Tập 5: Diễm My 9x Tập 6: Mai Tài Phến Tập 7: Hùng Thuận Tập 8: Tiết Cương Tập 9: Thiên Vương (nhóm nhạc MTV) Tập 10: Huỳnh Lập Tập 11: Thuận Nguyễn Tập 12: Anh Đức Tập 13: Miko Lan Trinh Tập 14: Minh Tú Tập 15: Cát Phượng Tập 16: Xuân Nghị Tập 17: Vân Trang Tập 18: Võ Hạ Trâm Tập 19: Diệu Nhi Tập 20: La Quốc Hùng Mùa 2 Tập 1: Lê Dương Bảo Lâm Tập 2: Xuân Nghị (2) Tập 3: Thuý Ngân Tập 4: Mạc Văn Khoa Tập 5: Huỳnh Lập (2), Hữu Tín Tập 6: Puka Tập 7: Mâu Thủy, Lê Dương Bảo Lâm (2) Tập 8: BB Trần, Hải Triều Tập 9: Mạc Văn Khoa(2), Vũ Hà Tập 10: Minh Dự Tập 11-12: Tổng hợp Tập 13: Lê Giang (2), Lê Lộc Tập 14: Băng Di Tập 15: Mạc Văn Khoa (3), Long Nhật Tập 16: Anh Thư, Lâm Khánh Chi Tập 17-19: Tổng hợp Mùa 3 Tập 1: Jack, K-ICM Tập 2: Hồ Quang Hiếu Tập 3: Vinh Râu Tập 4: ViruSs Tập 5: Jun Phạm, Midu Tập 6: Thu Thủy, NSƯT Kim Tử Long Tập 7: Anh Đức (2), Nam Thư Tập 8: Gin Tuấn Kiệt, Liên Bỉnh Phát Tập 9: Anh Đức (3), Khả Như Tập 10: Tập đặc biệt mừng Tết Canh Tý. Tập 11: Cris Phan Tập 12: Kỳ Duyên, Minh Triệu Tập 13: Gil Lê Tập 14: Quỳnh Lương, Denis Đặng, Nguyễn Trần Trung Quân Tập 15: BB Trần (2) Tập 16: Hứa Minh Đạt Tập 17: S.T Sơn Thạch, Lê Dương Bảo Lâm (3) Tập 18: Puka (2) Tập 19: Vũ Cát Tường, Lê Dương Bảo Lâm (4) Tập 20-23: Tổng hợp Mùa 4 Tập 1: Đỗ Khánh Vân và Hậu Hoàng Tập 2: S.T Sơn Thạch (2) Tập 3: Lý Nhã Kỳ Tập 4: Liên Bỉnh Phát (2) Tập 5: Khắc Việt Tập 6: Ngân Khánh Tập 7: Minh Hằng Tập 8: Kỳ Duyên (2), Minh Triệu (2), Lê Dương Bảo Lâm (5) Tập 9: Cris Phan (2), MLEE Tập 10: Minh Tú (2) Tập 11: Đạt G Tập 12: Ưng Hoàng Phúc Tập 13: Lê Dương Bảo Lâm (6) Tập 14: Nguyễn Trần Khánh Vân Tập 15: Tập đặc biệt mừng Tết Tân Sửu. Tập 16: Ricky Star và Yuno Bigboi Tập 17: Hoàng Phi Tập 18: Hữu Tín (2) Tập 19: Thủy Tiên Tập 20: Huy Khánh Tập 21: Gin Tuấn Kiệt (2) và Puka (3) Tập 22-24: Tổng hợp Mùa 5 Tập 1: Nguyễn Trần Khánh Vân (2) Tập 2: Trần Tiểu Vy Tập 3: Vũ Quốc Khánh Tập 4: Song Luân Tập 5: Phương Lan và Mạc Văn Khoa (4) Tập 6: Hồng Thanh và Mie Tập 7: Juky San và Lê Dương Bảo Lâm (7) Tập 8: Gil Lê (2) Tập 9: Võ Tấn Phát, Ngọc Hoa, Hữu Đằng Tập 10: Lâm Vinh Hải, Nguyễn Bạch Tú Hảo Tập 11: Tập đặc biệt mừng Tết Nhâm Dần. Tập 12: Khả Như (2) và Hồ Việt Trung (2) Tập 13: Cris Phan (3) Tập 14: Võ Hoàng Yến Tập 15: S.T Sơn Thạch (3) và Lý Nhã Kỳ (2) Tập 16: Mai Phương Thúy Tập 17-19: Tổng hợp Mùa 6 Tập 1: Thuận Nguyễn (2) [7NCX6] Tập 2: Vũ Quốc Khánh (2) và Diễm My 9x (2) Tập 3: Only C, Hà Thu Tập 4: Song Luân (2) Tập 5: Hà Nhi Tập 6: Anh Tú The Voice, LyLy Tập 7: Hồng Thanh (2) và Mie (2) Tập 8: Lê Khánh Tập 9: Duy Khánh Zhou Zhou Tập 10: Vũ Quốc Khánh (3) Tập 11: Tập đặc biệt mừng Tết Quý Mão. Tập 12: Xuân Nghị (3) Tập 13: Puka (4) và Gin Tuấn Kiệt (3) Tập 14: Trần Tiểu Vy (2) Tập 15: Võ Tấn Phát (2) Tập 16: Jun Phạm (2) Tập 17-19: Tổng hợp Mùa 7 Tập 1 + 2: HIEUTHUHAI, Lê Dương Bảo Lâm (8), Ngô Kiến Huy (Dàn cast 2 ngày 1 đêm) (Trường Giang tham gia với vai trò MC và người chơi chung đội với 3 dàn cast 2 ngày 1 đêm) Tập 3: Minh Dự (2) Tập 4: Võ Tấn Phát (3) và Quang Tuấn Tập 5: Puka (5), Gin Tuấn Kiệt (4), Steven Nguyễn Tập 6: Ngọc Phước Tập 7: Phương Mỹ Chi Ca sĩ Chữ in đậm là ca sĩ khách mời Mùa 4 (Tập 15): Như hoa mùa xuân (Châu Đăng Khoa) - Lâm Vỹ Dạ Mùa 5 (Tập 11): Ngày xuân long phụng sum vầy (Quang Huy) - S.T Sơn Thạch Mùa 5 (Tập 17): Lời đường mật (LyLy & HIEUTHUHAI) - LyLy Mùa 5 (Tập 18): Em nghĩ sao về (Phạm Đình Thái Ngân) - Phạm Đình Thái Ngân Mùa 5 (Tập 19): Phiếu bé ngoan (Nhạc: Thịnh Kainz-Kata Trần & Lời: Kata Trần-Huy Trần Jack) - S.T Sơn Thạch Mùa 7 (Tập 1): Hoa cỏ mùa xuân (Bảo Châu) - Võ Hạ Trâm Về quê thôi (Hồ Phi Nal) - Hồ Phi Nal Anh không có gì đặc biệt ngoài đặc sản (Masew, Double2T, Orange) - Double2T Mùa 7 (Tập 2): Nhạc khúc tình xuân (Hoài An) - Võ Hạ Trâm Mùa 7 (Tập 5): Rồi tới luôn (Hồ Phi Nal) - Hồ Phi Nal Phần Kịch Mùa 1: Chuyện nhà Bảy Nụ Mùa 2: Chuyện nhà Bảy Nụ Mùa 3: Gia đình Bảy Nụ Mùa 4: Khu phố Bảy Nụ Mùa 5: Khu biệt thự 7 nụ (*) Vắng tập 10 (**) Vắng tập 12, 13, 14 Mùa 6: Quán cà phê rất ổn {| class="wikitable" ! colspan="2" rowspan="7" |Nhân vật chính !Nghệ sĩ !Nhân vật !Ghi chú |- |Trương Thế Vinh |Tùng Lâm |Chủ quán cafe rất ổn |- |Trường Giang |Út Hào Hiệp |Chủ quán cafe rất ổn |- |Tiến Luật |Song Lang |Chủ quán cafe rất ổn |- |Ninh Dương Lan Ngọc |Thắm |Con gái Út Hào Hiệp |- |Lâm Vỹ Dạ |Ngọc Điệp |Người yêu Song Lang |- |Thuý Ngân |Thuỳ Dương | Người yêu Tùng Lâm |- | colspan="5" | |- !Tập !Nội dung !Nghệ sĩ !Nhân vật !Ghi chú |- !Tập 1 | |Hạnh Thảo |Con gái chủ nhà |Chủ nhà Út Hào Hiệp |- !Tập 4 | |Song Luân |Luân |Bạn của Thắm |- !Tập 5 | |Hà Nhi|Nhi|Em gái Song Lang |- !Tập 8 | |Lê Khánh|Cô giáo|Cô giáo Tùng Lâm|- !Tập 9 | |Duy Khánh |Hùng |Chủ quán đảo xa|- !Tập 10 | |Vũ Quốc Khánh|Khánh|Bạn của Thuỳ Dương'''|} Mùa 7: Viện dưỡng lão Hạnh Phúc (*) Vắng tập 3, 4''
19858134
https://vi.wikipedia.org/wiki/Francisco%20v%C3%A0%20Jacinta%20Marto
Francisco và Jacinta Marto
Francisco de Jesus Marto (11 tháng 6 năm 1908 – 4 tháng 4 năm 1919) và Jacinta de Jesus Marto (5 tháng 3 năm 1910 – 20 tháng 2 năm 1920) là hai anh em người Bồ Đào Nha sống tại xóm Aljustrel gần giáo xứ Fátima, Bồ Đào Nha, đã cùng với người chị họ của mình là Lúcia dos Santos chứng kiến 3 lần Thiên thần Hòa bình hiện ra vào năm 1916 và nhiều lần Đức Mẹ Maria hiện ra ở Cova da Iria vào năm 1917. Nhờ sự kiện đó, tước hiệu Đức Mẹ Fátima được dành cho Thánh Maria, và Đền thánh Fátima trở thành một trong những trung tâm hành hương Kitô giáo lớn của thế giới. Hai anh em nhà Marto được Giáo hoàng Phanxicô tuyên thánh cách trọng thể vào ngày 13 tháng 5 năm 2017 tại Đền thánh Fátima, Bồ Đào Nha nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ Fátima hiện ra lần đầu tiên. Họ cũng là những vị thánh trẻ tuổi nhất của Giáo hội Công giáo, trong đó Jacinta Marto là vị thánh trẻ tuổi nhất mà không phải là một thánh tử đạo. Cuộc đời Là hai người con út của ông Manuel Marto và bà Olimpia Marto, Francisco và Jacinta là hai thiếu nhi điển hình của làng quê Bồ Đào Nha lúc bấy giờ – các em không biết chữ. Theo hồi ký của Chị Lúcia, Francisco có tính cách trầm tĩnh, có khuynh hướng thiên về âm nhạc và thích ngồi một mình để suy ngẫm, còn Jacinta là một người có lòng yêu thương cùng giọng hát ngọt ngào và có năng khiếu về khiêu vũ. Ngay cả khi phải trải qua một số sự kiện trong cuộc đời, tính cách nguyên sơ của hai em vẫn không thay đổi. Francisco thì ưa thích cầu nguyện một mình, và cho rằng việc này có thể "an ủi Chúa Giê-su vì tội lỗi của thế giới". Jacinta thì cho rằng em đã bị tác động sâu sắc khi được thấy cảnh hãi hùng nơi Hỏa ngục trong lần hiện ra thứ 3 của Đức Mẹ, và cũng hoàn toàn xác tín rằng con người cần nỗ lực hoán cải những người tội lỗi thông qua sám hối và thực hành hy sinh như lời Đức Trinh Nữ Maria đã truyền cho các em làm. Cả ba trẻ em, nhưng cụ thể là Francisco và Jacinta, đã chọn thực hành khổ chế cách nghiêm khắc vì mục đích này. Trong báo cáo xác nhận Jacinta đã được phong chân phước, Bộ Tuyên thánh đã nhận xét rằng em Jacinta dường như có một niềm "khát khao bị thiêu sống rất mãnh liệt". Qua đó, Bộ Tuyên thánh coi sự thiêu sống tương tự như dâng hiến thân mình trong lễ sát tế. Tham khảo Sinh năm 1908 Sinh năm 1910 Mất năm 1919 Mất năm 1920 Người Bồ Đào Nha thế kỷ 20 Tín hữu Công giáo Bồ Đào Nha Thánh Công giáo Rôma
19858137
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tarot%20%28phim%202024%29
Tarot (phim 2024)
Tarot là bộ phim kinh dị siêu nhiên của Hoa Kỳ được đạo diễn kiêm biên kịch bởi Spenser Cohen và Anna Halberg (đây là bộ phim đạo diễn đầu tay của họ) và Nicholas Adams trong vai trò đồng biên kịch. Bộ phim được dựa trên bộ tiểu thuyết năm 1992 là Horrorscope của Nicholas Adams. Phim sẽ có sự tham gia diễn xuất của Harriet Slater, Adain Bradley, Avantikavà Jacob Batalon. Tarot được công chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 5, 2024 và do Sony Pictures Releasing phân phối. Tiền đề Bộ phim sẽ là hành trình theo chân một nhóm bạn đại học sau khi sử dụng một bộ bài tarot bí ẩn, từng người trong nhóm đã ra đi theo những cách kì lạ và có liên quan đến lá bài mà họ bốc. Trước khi hết thời gian, họ đã cùng nhau hợp tác để khám phá ra bí ẩn đằng sau bộ bài kí bí ấy. Diễn viên Harriet Slater Jacob Batalon Avantika Adain Bradley Humberly González Olwen Fouéré Wolfgang Novogratz Larsen Thompson Nguồn Liên kết ngoài Phim năm 2024 Phim thập niên 2020 Phim tiếng Anh Phim siêu nhiên Phim kinh dị siêu nhiên Phim kinh dị Phim đạo diễn đầu tay Phim Mỹ năm 2024 Phim Mỹ Phim Mỹ thập niên 2020 Phim siêu nhiên Mỹ Phim kinh dị Mỹ Phim kinh dị siêu nhiên Mỹ Phim kinh dị năm 2024 Phim kinh dị siêu nhiên năm 2024 Phim siêu nhiên năm 2024 Phim tiếng Anh thập niên 2020 Phim kinh dị thập niên 2020 Phim siêu nhiên thập niên 2020 Phim kinh dị siêu nhiên thập niên 2020 Phim của Screen Gems
19858143
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C3%AAu%20cu%E1%BB%93ng%20lo%E1%BA%A1n
Yêu cuồng loạn
Yêu cuồng loạn (tên tiếng Anh: Love Lies Bleeding) là bộ phim lãng mạn giật gân được đạo diễn bởi Rose Glass với kịch bản do cô đồng chấp bút cùng Weronika Tofilska. Phim có sự tham gia diễn xuất của Kristen Stewart, Katy O'Brian, Jena Malone, Anna Baryshnikov, Dave Franco và Ed Harris với cốt truyện lấy bối cảnh thập niên 80, xoay quanh mối quan hệ giữa một người quản lý phòng tập sống ẩn dật với một gia đình tội phạm của mình và một vận động viên thể hình đầy tham vọng. Yêu cuồng loạn được ra mắt lần đầu vào ngày 20 tháng 1 tại Liên hoan phim Sundance năm 2024. Sau đó, vào ngày 8 tháng 3 năm 2024, bộ phim được công chiếu chính thức tại các rạp ở Hoa Kỳ do hãng A24 phát hành và tại Vương quốc Anh, bộ phim được phát hành bởi Lionsgate UK vào ngày 3 tháng 5 năm 2024. Tại thị trường Việt Nam, bộ phim được ra mắt tại các rạp vào ngày 22 tháng 3 năm 2024. Tiền đề Vào những năm 80, một quản lý phòng tập sống ẩn Lou đã phải Jackie, một vận động viên thể hình đầy tham vọng đã đi xuyên thị trấn đến Las Vegas để thực hiện giấc mơ của mình. Nhưng mối quan hệ tình cảm của họ đã làm khơi dậy sự bạo lực và đẩy cả hai rơi vào mạng lưới của gia đình tội phạm nhà Lou. Diễn viên Kristen Stewart thủ vai Lou, một quản lý phòng tập sống ẩn dật Katy O'Brian thủ vai Jackie, một vận động viên thể hình tham vọng Ed Harris thủ vai Lou Sr., Cha của Lou Jena Malone thủ vai Beth Anna Baryshnikov thủ vai Daisy Dave Franco thủ vai JJ Nguồn Liên kết ngoài Phim năm 2024 Phim Mỹ Phim thập niên 2020 Phim tiếng Anh Phim độc lập Phim lãng mạn Phim giật gân Phim Mỹ thập niên 2020 Phim độc lập Mỹ Phim lãng mạn Mỹ Phim giật gân Mỹ Phim tiếng Anh thập niên 2020 Phim Anh Phim liên quan đến LGBT của Mỹ Phim liên quan đến LGBT của Vương quốc Liên hiệp Anh Phim liên quan đến đồng tính nữ Phim lấy bối cảnh ở thập niên 1980 Phim hãng Film4 Productions Phim của A24
19858147
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20Ng%C5%A9%20%C4%90%C3%ACnh
Cầu Ngũ Đình
Cầu Ngũ Đình, còn được gọi Cầu Liên Hoa, là một cây cầu vòm bằng đá có mái che dành cho người đi bộ ở vườn quốc gia Hồ Sấu Tây ở quận Hàn Giang, thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Đây là một trong Tứ kiều Yên vũ lâu, một trong 24 phong cảnh Dương Châu dưới thời nhà Thanh và trở thành điểm đến của thành phố. Tên gọi Cây cầu có tên là "Cầu Ngũ Đình". Tên khác là "Cầu Liên Hoa", dịch từ tên gốc tiếng Trung của cây cầu. Tên cầu hoặc được đặt theo Đê Hoa Sen mà cây cầu nối vào ở phía nam hoặc các đình của cầu nhìn giống với những cánh hoa sen. Lịch sử Cây cầu được xây dựng vào năm Càn Long thứ 22 (1757), nối các khu nhà ở bờ bắc hồ với phía sau ở phía nam. Việc xây cầu được tài trợ bởi các thương gia buôn muối địa phương để nghênh tiếp Càn Long Đế của nhà Thanh trong chuyến đến Giang Nam lần thứ hai về phía nam. Cây cầu được thiết kế theo kiểu Ngũ Long Đình ở Bắc Kinh, kết hợp với Bạch Tháp tại Liên Tính tự để mô phỏng Công viên Bắc Hải của thủ đô. Mặc dù là ví dụ điển hình của những cây cầu nhà Thanh có mái che với nhiều tên gọi khác nhau như "lang kiều", "phong vũ kiều" và "đình kiều", cây cầu được kỹ sư xây dựng nổi danh người Trung Quốc Mao Dĩ Thăng ca ngợi là "cây cầu thanh lịch và nghệ thuật nhất" của Trung Quốc. Cây cầu bị hư hỏng nặng trong cuộc chiến giữa Thái Bình Thiên Quốc và quân Thanh trong suốt năm 1853, với các đình bị phá hủy hoàn toàn. Sau đó chúng được sửa chữa vào cuối nhà Thanh, nhưng chỉ có ba trong số năm đình còn trụ vững đến năm 1929. Cây cầu sau đó được tân trang vào các năm 1933, 1951–1953, 1956, và 1982. Với tên gọi "Cầu Liên Hoa", Cầu Ngũ Đình được khắc cùng với Bạch Tháp gần đó là Di sản văn hóa lớn thứ 533 dưới sự bảo vệ cấp quốc gia được thêm vào trong vòng đề cử thứ 6 vào ngày 25 tháng 5 năm 2006. Cấu trúc Cầu Ngũ Đình dài . Cầu nằm trên 12 đế bằng đá hoa cương với nhiều kích cỡ khác nhau, nâng đỡ 15 mái vòm theo ba kiểu. Vòm lớn nhất có nhịp . Đình trung tâm lớn nhất được nối với bốn đình nhỏ hơn ở mỗi góc bằng lối đi có mái che. Các đình hiện nay tăng các cột màu đỏ và được che phủ bằng ngói màu vàng. Chú thích Trích dẫn Thư mục . . . . . . . . Kiến trúc Nhà Thanh Điểm tham quan ở Giang Tô
19858161
https://vi.wikipedia.org/wiki/Harta%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Harta (định hướng)
Harta có thể là: Tạp chí truyện tranh seinen Harta của Nhật Làng Harta ở Hungary Làng Harta ở Ba Lan __ĐỊNHHƯỚNG__
19858181
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kawamata%2C%20Fukushima
Kawamata, Fukushima
là thị trấn thuộc huyện Date, tỉnh Fukushima, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 12.170 người và mật độ dân số là 95 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 127,7 km2. Địa lý Đô thị lân cận Fukushima Fukushima Date Nihonmatsu Iitate Namie Tham khảo Thị trấn của Fukushima
19858185
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sev%20Karde%C5%9Fim
Sev Kardeşim
Sev Kardeşim là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ năm 1972 của đạo diễn Ertem Eğilmez. Diễn viên Hülya Koçyiğit - Alev Güler Tarık Akan - Ferit Çaliskan Münir Özkul - Mesut Güler Adile Naşit - Mesude Turgut Boralı - Maksut Güler Halit Akçatepe - Ali Necdet Yakın - Alev'in Dayisi Hulusi Kentmen - Cemal Çaliskan Nedret Güvenç - Ferit'in Annesi Zeki Alasya - Avukat Tham khảo Liên kết ngoài Phim hài năm 1972 Phim năm 1972 Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ thập nhiên 1970
19858191
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ortadirek%20%C5%9Eaban
Ortadirek Şaban
Ortadirek Şaban là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ năm 1984 của đạo diễn Kartal Tibet. Diễn viên Kemal Sunal - Şaban Bahar Öztan - Bahar Gökçe Yalçın Tülpar - Erkan Ergun Köknar - Adnan Bıçakçı Yavuzer Çetinkaya - Çete Reisi Çakal Reha Yurdakul - Şükrü Bey Tham khảo Liên kết ngoài Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ
19858197
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Zhovka
Lâu đài Zhovka
Lâu đài Zhovkva (; ) occupies the principal square of the thị trấn Zhovkva, Ukraine. Lâu đài được xây dựng bởi một quý tộc Ba Lan Stanisław Żółkiewski như một pháo đài riêng của ông. Lâu đài được khỏi công vào năm 1594 và gần như hoàn thiện vào năm 1606. Lâu đài có cổng vòm đặc trưng kiểu Serlian và được bao quanh bởi một hệ thống hào (rộng đến 17 mét). Một phía của lâu đài là kho vũ khí và khu chuồng ngựa; một phía khác được bao phủ hoàn toàn bởi tường thành. Năm 1606, một khu vườn được xây dựng và hoàn thiện ngay cạnh lâu đài. Đó là nơi chăn nuôi bò bison, hươu, và sơn dương chamois. Mặt khác, nhà nguyện của lâu đài được hoàn thiện vào năm 1640. Thời hoàng kim của lâu đài Zolkiew là vào cuối thế kỉ XVII, khi nó được thừa kế bởi Jakub Sobieski và sau đó là vua Jan III Sobieski, một người gốc Zhovkva. Lâu đài sau đó được chọn làm nơi tổ chức lễ ăn mừng trận thắng của ông tại Vienna. Vào thế kỉ XVIII, mặt tiền của lâu đài được trang trí thêm những bức tượng của những người chủ từ các gia tộc Zolkiewski, Daniłowicz, Sobieski, vàRadziwill. Sau khi quân Đồng minh phân chia lại Ba Lan, tòa lâu đài không còn được sử dụng và bị đem ra bán đấu giá. Trong thế kỷ XIX, nhà nguyện và một số công trình kiến ​​trúc khác của lâu đài đã bị dỡ bỏ hoặc xây dựng lại để làm trường học địa phương. Lâu đài cũng chịu nhiều tổn thất khác sau Đệ nhất Thế chiến. Một vài cuộc trùng tu diễn ra ngay trước thêm Đệ nhị Thế chiến, nhưng lâu đài vần cần nhiều cuộc trùng tu khác sau thời chiến sự để phục hồi lại nguyên trạng ban đầu. Tham khảo Лильо І. М., Лильо-Откович З. М. Прогулянка Львовом. Путівник — К.: Балтія Друк, 2005. — 224 с.: іл. Памятники градостроительства и архитектуры Украинской ССР. Киев: Будивельник, 1983–1986. Том 3, с. 152. Castles in Ukraine Zhovkva Houses completed in 1606 Buildings and structures in Lviv Oblast 1606 establishments in the Polish–Lithuanian Commonwealth Royal residences in Ukraine Residences of Polish monarchs
19858198
https://vi.wikipedia.org/wiki/LOONG%209
LOONG 9
LOONG 9 (đọc là Loong Nine, ), là nhóm nhạc 9 thành viên ra mắt từ chương trình tuyển chọn nhóm nhạc nam "Á Châu siêu tinh đoàn" do TVB và Youku tổ chức. 9 thành viên đó là Ollie, Lý Quyền Triết, Tiển Tĩnh Phong, Giang Tín Hy, Lương Thi Dục, Bạch Tử Dịch, Văn Tá Khuông, Huỳnh Dịch Bân và Trần Lương. Hoạt động đầu tiên của nhóm là đến Bắc Kinh tiến hành tập huấn. Tên gọi "LOONG" là tên tiếng Anh của rồng Trung Hoa, vì nhóm ra đời vào năm con rồng, rồng trở thành vật tổ và ký hiệu của nhóm, "9" là top 9 thí sinh cuối cùng của chương trình. Sự nghiệp Trước khi ra mắt Ollie là thí sinh top 26 của chương trình "Boys Planet" của Mnet. Lý Quyền Triết là cựu thành viên của nhóm nhạc NEXT. Tiển Tĩnh Phong là ca sĩ đã ra mắt cá nhân sau khi đạt hạng 4 từ chương trình "Thanh mộng truyền kỳ" của TVB. Giang Tín Hy và Lương Thi Dục là thành viên của nhóm nhạc BOYHOOD. Bạch Tử Dịch là thành viên của Trainee 18. Văn Tá Khuông là thí sinh top 10 của chương trình "Thanh mộng truyền kỳ 2" của TVB. Huỳnh Dịch Bân là thí sinh top 9 của chương trình "Thanh mộng truyền kỳ" của TVB. Trần Lương là thí sinh top 70 của chương trình "Boys Planet" của Mnet. Năm 2023 - 2024: Thành lập nhóm và ra mắt Ngày 25/11/2023, các thành viên tham gia chương trình tuyển chọn nhóm nhạc nam "Á Châu siêu tinh đoàn" do TVB và Youku tổ chức. Ngày 9/3/2024, đêm chung kết của chương trình diễn ra, top 9 cuối cùng xuất hiện gồm có Ollie, Lý Quyền Triết, Tiển Tĩnh Phong, Giang Tín Hy, Lương Thi Dục, Bạch Tử Dịch, Văn Tá Khuông, Huỳnh Dịch Bân và Trần Lương, thành lập nhóm LOONG 9. Hoạt động đầu tiên của nhóm là đến Bắc Kinh tiến hành tập huấn. Thành viên Tác phẩm truyền hình Tư liệu tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của LOONG9 Instagram của thành viên LOONG9 Weibo của thành viên LOONG9 LOONG 9 Ban nhạc nam Trung Quốc Ban nhạc nam Hồng Kông Nhóm nhạc Mandopop Nhóm nhạc Cantopop Thần tượng Hồng Kông Ca sĩ tiếng Quan thoại
19858205
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn%20tr%C3%BAc%20b%E1%BA%A3n%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20c%E1%BB%A7a%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Carpathians
Kiến trúc bản địa của người Carpathians
Kiến trúc địa phương là một phong cách kiến trúc được hình thành và phát triển dựa trên điều kiện khí hậu, văn hóa, vật liệu địa phương và kỹ thuật xây dựng truyền thống của một vùng miền cụ thể. Nó thường thể hiện sự hòa hợp giữa con người với môi trường xung quanh và mang đậm bản sắc văn hóa của địa phương. Kiến trúc bản địa của người Carpathian dựa trên các nguồn văn hóa và môi trường để tạo ra những thiết kế độc đáo. Ảnh hưởng của văn hóa - tín ngưỡng Chính thống giáo Người Ukraina, người Nga và người România được ảnh hưởng bởi các văn hóa, truyền thống của Chính thống giáo Đông phương, nên kỹ thuật xây dựng của họ theo truyền thống đã kết hợp những thay đổi, điều chỉnh về mặt tôn giáo vào những công trình kiến trúc của họ, khác biệt với các kiểu kiến trúc đặc trưng khác ở Tây Âu. Các nhà thờ được chia thành ba phần chính (tiền sảnh, thân nhà thờ, và cung Thánh). Hình dạng bên ngoài nhà thờ thường là hình Thánh giá, nhưng sẽ luôn bao gồm một mái vòm chính và các mái vòm phụ khác. Giáo dân quay mặt về phía đông trong khi thờ phượng và nhà thờ không có những băng ghế dài như của Công giáo. Cổng vào và của sổ của nhà thờ đều hướng về phía Nam còn những bức tranh, tượng hay phù điêu khác thì được đặt ở một khu riêng, thường ở bờ tường Đông của nhà thờ. Do Thái giáo Các giáo đường Do Thái ở Đông-Trung Âu nổi tiếng với thiết kế hoàn toàn bằng gỗ độc đáo. Materials and techniques Đặc điểm chi tiết khác nhau tùy theo từng địa phương nhưng phần lớn các ngôi nhà ở khu vực này theo truyền thống là mặt bằng hình chữ nhật một tầng; một hoặc hai phòng; một ống khói trung tâm; mái đầu hồi, mái hông hoặc mái hông; và bên ngoài được trát và quét vôi. Vật liệu được sử dụng là những vật liệu có thể mua được tại địa phương, bao gồm gỗ (thường là gỗ sồi), bùn, rơm rạ, đá mỏ, vôi và phân động vật. Mái nhà ở những khu vực có nhiều cây cối và đồi núi thường được lợp bằng gỗ lắc hoặc ván lợp, trong khi những khu vực bằng phẳng hơn và thoáng hơn thường sử dụng rơm lúa mạch đen. Vào cuối thế kỷ 19, hai loại hình xây dựng chiếm ưu thế, xây dựng bằng gỗ ngang và xây dựng khung và lấp đầy. Những bức tường bằng gỗ phổ biến ở những khu vực có sẵn gỗ. Ở những nơi có lượng gỗ rất kém hoặc thiếu gỗ nghiêm trọng, người ta dùng phên trét đất để thay thế. Đối với việc xây dựng các khúc gỗ theo chiều ngang, các khúc gỗ cần phải được khía để giữ chặt với nhau. Phần rãnh yên đơn giản, dễ dàng xây dựng nhất nên rất phổ biến. Các khớp nối gỗ lại được sử dụng bởi những người thợ mộc giàu kinh nghiệm. Nhiều người dân ở khu vực này trát những ngôi nhà bằng gỗ của họ từ trong ra ngoài để tránh ẩm, cải thiện khả năng cách nhiệt, che giấu những điểm không hoàn hảo trong xây dựng và để có giá trị thẩm mỹ chung. Thạch cao truyền thống được làm từ đất sét, nước, phân và rơm rạ hoặc trấu. Có thể phủ một số lớp để tạo độ mịn, sau đó phủ vôi và nước để tạo màu trắng dễ chịu và bảo vệ đất sét khỏi mưa. Mái tranh là loại mái truyền thống nhưng đã không còn phổ biến trong hơn một thế kỷ qua vì chúng có thể gây nguy hiểm hỏa hoạn. Sàn nhà bẩn là phổ biến và được làm cứng bằng cách rửa bằng hỗn hợp phân, mặc dù sàn gỗ được ưa chuộng hơn. Thông thường, bức tường dài của một ngôi nhà có chiều cao từ 26 foot (7,9 m) đến 30 foot (9,1 m) và bức tường bên từ 12 foot (3,7 m) đến 17 foot (5,2 m). Giữa ngôi nhà được bao phủ bởi một lò đất sét truyền thống (tiếng Ukraina: pich hoặc pietz) Di sản thế giới Wooden Churches of Ukraine Wooden Churches of Maramureş Carpathian Wooden Churches Wooden Churches of Southern Lesser Poland Zakopane Style of Architecture Xem thêm Articular church Burdei Tham khảo Lehr, John C., "Ukrainians in Western Canada" in To Build in a New Land (Baltimore and London: The Johns Hopkins University Press, 1992) pp 309–330. Carpathian Architecture in Poland Architecture in Romania Architecture in Ukraine History of Galicia (Eastern Europe) Carpathians Kiến trúc Ukraina Karpat
19858206
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xeon%20Phi
Xeon Phi
Xeon Phi là một dòng CPU x86 nhiều nhân được thiết kế và tạo ra bởi Intel. Nó được thiết kế để sử dụng trong Siêu máy tính, Máy chủ, và Máy trạm cao cấp. Kiến trúc của nó cho phép sử dụng các ngôn ngữ lập trình tiêu chuẩn và API như là OpenMP. Xeon Phi được ra mắt vào năm 2010. Vì ban đầu nó dựa trên thiết kế bộ xử lý đồ họa trước đó (tên mã là "Larrabee") của Intel đã bị hủy bỏ vào năm 2009, nên nó chia sẻ các khu vực ứng dụng với bộ xử lý đồ họa. Khác biệt chính giữa Xeon Phi và đơn vị xử lý đồ họa đa năng như Nvidia Tesla là Xeon Phi, với nhân tương thích x86, có thể, với ít sửa đổi hơn, chạy được phần mềm được nhắm mục tiêu đến CPU x86 tiêu chuẩn. Ban đầu dưới dạng card bổ sung dựa trên PCI Express, một sản phẩm thế hệ thứ hai có tên mã là Knights Landing, đã được công bố vào tháng 6 năm 2013. Những chip thế hệ này có thể sử dụng như là một CPU độc lập, thay vì chỉ là một thể bổ sung. Vào tháng 6 năm 2013, siêu máy tính Tianhe-2 tại Trung tâm Siêu máy tính Quốc gia ở Quảng Châu (NSCC-GZ) đã được công bố là siêu máy tính nhanh nhất thế giới (tính đến tháng 6 năm 2023, nó đứng thứ 10). Nó sử dụng CPU Xeon Phi và EP Xeon E5 v2 Ivy Bridge để đạt được 33.86 petaFLOPS. Dòng Xeon Phi cạnh tranh trực tiếp với các dòng card Deep Learning GPGPU như Nvidia Tesla và AMD Radeon Instinct. Nó đã bị ngừng sản xuất do thiếu nhu cầu và các vấn đề của Intel với nút 10nm. Tham khảo Tọa độ không có sẵn trên Wikidata Vi xử lý Intel
19858208
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carolina%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Taylor%20Swift%29
Carolina (bài hát của Taylor Swift)
"Carolina" là một bài hát do ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift viết và thu âm cho album nhạc phim của bộ phim chính kịch bí ẩn giật gân Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (2022). Bài hát do Republic Records phát hành vào ngày 24 tháng 6 năm 2022, với tựa đề được đặt theo tên theo khu vực Carolinas ở Hoa Kỳ. Phần ca từ của bài hát được viết dưới góc nhìn của nhân vật nữ chính Catherine Clark. "Carolina" đã nhận được nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình âm nhạc, đặc biệt khi bài hát đã diễn tả đúng bầu không khí của bộ phim, cùng với đó là chất nhạc gợi nhớ đến hai album indie folk năm 2020 của Swift là Folklore và Evermore. Các bài đánh giá đều dành lời khen ngợi cho giọng hát, phong cách sáng tác và chất "ám ảnh" mà Swift đã đưa vào tác phẩm. Dưới vai trò sản xuất của Swift và Aaron Dessner, "Carolina" là một bản ballad Americana có nhịp độ chậm rãi theo phong cách nhạc dân ca Appalachia với ảnh hưởng của nhạc đồng quê và bluegrass. Phần khí nhạc của bài hát là sự kết hợp giữa âm thanh của các nhạc cụ acoustic đầu thập niên 1950 như fiddle, măng cầm và guitar acoustic. Sau khi phát hành, "Carolina" đã lọt vào các bảng xếp hạng đĩa đơn của Úc, Canada, Hungary, Ireland, Hà Lan, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Việt Nam. Bài hát đã giành được một giải MTV Movie & TV Award và được đề cử cho Giải Critics' Choice, Giải Quả cầu vàng, Giải Grammy, Giải Vệ tinh cùng nhiều giải thưởng khác. Bối cảnh và phát hành Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (2022) là một bộ phim chính kịch bí ẩn giật gân của Mỹ do Olivia Newman đạo diễn và Reese Witherspoon sản xuất, với sự tham gia của Daisy Edgar-Jones trong vai nữ chính. Đây là bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 2018 của tác giả người Mỹ Delia Owens. Đặt bối cảnh vào thập niên 1950, câu chuyện xoay quanh một cô gái bị bỏ rơi tên Kya lớn lên ở một đầm lầy cỏ ở North Carolina và trở thành nghi phạm chính trong vụ sát hại một chàng trai từng theo đuổi cô. Đoạn trailer đầu tiên của phim được ra mắt vào ngày 22 tháng 3 năm 2022 và có ghép cùng một đoạn nhạc của "Carolina". Đoạn trailer còn tiết lộ ca khúc được sáng tác và thể hiện bởi nữ ca sĩ người Mỹ Taylor Swift. Một đoạn khác của bài hát được tiết lộ thông qua đoạn trailer dài hơn của bộ phim phát hành vào ngày 22 tháng 5 năm 2022. Ngày phát hành của bài hát đã được tài khoản Instagram chính thức của bộ phim hé lộ khi qua một loạt bài đăng vào ngày 22 tháng 6 với phần ghi chú viết hoa các chữ cái, đánh vần thành cụm "Carolina thứ Năm tuần này". Một ngày sau, ngày phát hành bài hát được xác nhận là 24 tháng 6 năm 2022. Một video lời bài hát cũng được đăng tải trên YouTube vào ngày bài hát được ra mắt. Sáng tác "Carolina" được viết hoàn toàn bởi Taylor Swift và được cô sản xuất cùng với Aaron Dessner – nhà sản xuất đã giúp cô thực hiện hai album phòng thu năm 2020 là Folklore và Evermore. Swift sáng tác "Carolina" tại thời điểm hơn một năm rưỡi trước ngày phát hành 24 tháng 6 năm 2022. Witherspoon cho biết bài hát đã được viết trong quá trình Swift làm việc cho dự án Folklore, dù vậy chỉ tới khi hoàn thành bài hát thì việc này mới được nữ ca sĩ tiết lộ. Swift lại càng háo hức hơn sau khi cô biết rằng Witherspoon sẽ tham gia sản xuất bộ phim chuyển thể. Trên Instagram, nữ ca sĩ cho biết cô rất thích cuốn tiểu thuyết gốc của Owens và ngay khi nghe tin phim điện ảnh chuyển thể "đang được thực hiện", cô đã muốn được đóng góp cho phần nhạc phim. Swift cho biết mục tiêu của cô là tạo ra một bài hát "ám ảnh và thanh khiết" để thể hiện câu chuyện "đầy mê hoặc" của cuốn tiểu thuyết. "Carolina" được phát ở phần danh đề cuối phim và Newman cho rằng nó "phản ánh được tông nền của phần kết câu chuyện". "Carolina" được mô tả là một bài hát theo dòng nhạc Americana và dân ca Appalachia với ảnh hưởng của nhạc đồng quê và bluegrass chơi trên hợp âm thứ. Bài hát được thu âm một lần duy nhất và chỉ sử dụng các nhạc khí acoustic xuất hiện trước năm 1953 – khoảng thời gian trong câu chuyện của Xa ngoài kia nơi loài tôm hát – như măng cầm, fiddle, tiếng guitar acoustic gảy nhẹ nhàng và âm đàn dây "lướt qua". Bài hát mở đầu bằng âm guitar gảy rải rác và dần mở rộng thành một "bầu không khí mù sương" qua sự kết hợp giữa đàn dây và băng cầm. Lời bài hát đề cập đến Kya, người kể chuyện trong bài hát và cũng là nhân vật chính của bộ phim, "đi lang thang qua những đầm lầy cỏ đầy cô đơn, tuyệt vọng vì những người đã rời bỏ cô và gợi ý về những điều bí mật mà cô đang nắm giữ". Phần ca từ của tác phẩm nặng về những hình ảnh tự nhiên như những con lạch nhỏ, con đường làng, sương mù, mây, bùn lầy, đám thông, bãi biển và rừng cây, lấy cảm hứng từ bối cảnh của câu chuyện ở vùng ven biển North Carolina. Trong bài hát, Swift sử dụng giọng hát với âm khu trầm nhẹ "như một tiếng thở". Đánh giá chuyên môn "Carolina" nhận được nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình âm nhạc. Nhà báo Jack Irvin của People đã miêu tả "Carolina" là một bản ballad tiết tấu chậm "đầy ám ảnh" với lời bài hát về việc "lén lút di chuyển qua nhiều địa điểm khác nhau mà không để bị phát hiện". Nhà phê bình Chris Willman của Variety cảm thấy bài hát gợi nhớ về phong cách âm nhạc trong Folklore và Evermore theo cách "dân gian nhất và nhẹ nhàng nhất." Emily Zemler và Kat Bouza trong bài đánh giá cho Rolling Stone đã nhận định rằng bài hát "ám ảnh" này làm gợi rõ hơn bối cảnh rừng rú của bộ phim cùng giai điệu "bi thương" của những bản ballad dân ca Appalachia, đồng thời ca ngợi giọng hát "như thể siren" của Swift. Cây viết Will Lavin của NME thì mô tả giọng hát của Swift là "sởn gai ốc". Trong một bài đánh giá tích cực cho Clash, Robin Murray gọi bài hát là một "thành tựu vĩ đại" vượt thời gian và là ví dụ điển hình nhất về khả năng của Swift trong việc khơi gợi những "chuyển động nội tâm, cách thời gian và xúc cảm trôi qua chỉ bằng một vài từ ngữ." Anh khen ngợi phần khí nhạc "thiên bẩm", giọng hát "tối giản nhưng đầy mạnh mẽ" của Swift và phần ca từ "bằng cách nào đó đã chắt lọc được tác phẩm của Delia Owens – ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu – thành một bài hát vô cùng súc tích và mạnh mẽ." Ryan O'Rourke của Collider gọi "Carolina" là một bản giai điệu "rùng mình", đầy ám ảnh và "gần như là một bản kể lại vắn tắt về các sự việc trong cuốn sách." Emily Zemler của Observer nhận định bài hát "nắm bắt một cách hoàn hảo cái kết buồn vui lẫn lộn" của Xa ngoài kia nơi loài tôm hát. Nhà báo Peter Travers của ABC News thì viết rằng Swift đã bắt được "chất văn hóa dân gian đầy ám ảnh" của cốt truyện phim trong bài hát, đồng thời thông qua âm nhạc và ca từ để gợi lên một "bí ẩn dai dẳng". Nhà báo British Vogue Radhika Seth đã mô tả bài hát như một "con sâu tai" với phần biên soạn mang những dư âm "bi ai, nặng trĩu" từ Evermore. Sam Sodomsky của Pitchfork nhận định "Carolina" là một bài hát nhẹ nhàng, bắt nguồn từ "những góc tối hơn" của Folklore và Evermore, từ bỏ "ngôn ngữ và kết cấu của nhạc pop để chuyển sang các bài hát dân ca cổ của Mỹ". Anh còn khen ngợi phương pháp tiếp cận âm nhạc của Swift trong bài hát: lời bài hát "ma mị" cùng giọng hát trầm và chậm rãi. Lindsay Zoladz của The New York Times gọi "Carolina" là một trong những bài hát "ma quái nhất" trong danh sách đĩa hát của Swift và là "lần gần nhất [mà Swift] viết một bản ballad giết người" sau "No Body, No Crime" (2020). Jonathan Broxton của Movie Music UK cũng mô tả bài hát như một bản ballad giết người; "không phải là một trong những nỗ lực đứng đầu bảng xếp hạng như thường lệ của cô ấy – mà thay vào đó, đây là một tác phẩm đầy nỗi niềm và bi ai". Anh ví "Carolina" như "một bản nhạc Americana truyền thống tuyệt vời, được tinh giản hóa và thể hiện bởi không gì khác ngoài một cây đàn guitar, một chiếc băng cầm và giọng hát mộng mơ đến ngỡ ngàng của Swift, cùng với phần ca từ đầy chất thơ liên quan trực tiếp đến các yếu tố của cốt chuyện." Trong bài đánh giá về bộ phim cho Consequence, Liz Shannon Miller đã viết "Carolina" là một "sự kết hợp hoàn hảo về cả nội dung lẫn tâm trạng của bộ phim." Cây bút Pat Padua của The Washington Post thì nhận định bài hát đã "kết nối được nhạc pop với Americana". Giải thưởng và đề cử Tại Giải Grammy lần thứ 65 (2023), "Carolina" là một trong các bài hát được lựa chọn tranh giải Ca khúc nhạc phim hay nhất – đây cũng là đề cử thứ tư của Swift ở hạng mục này sau "Safe & Sound" (2011) từ Đấu trường sinh tử, "I Don't Wanna Live Forever" (2017) từ Năm mươi sắc thái đen và "Beautiful Ghosts" (2019) từ Cats: Những chú mèo, mà trong đó chỉ có "Safe & Sound" giành chiến thắng. Swift cũng đã giành được đề cử Giải Critics' Choice đầu tiên trong sự nghiệp với bài hát này. "Carolina" cũng đã lọt vào danh sách rút gọn cho hạng mục Ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất tại Giải Oscar lần thứ 95. Đội ngũ thực hiện Danh sách đội ngũ thực hiện được trích từ Tidal. Taylor Swift – giọng hát, sáng tác, sản xuất Aaron Dessner – sản xuất, kỹ thuật, guitar acoustic, băng cầm, guitar bass, măng cầm, dương cầm, synthesizer Reid Jenkins – fiddle Randy Merrill – master Jonathan Low – phối nhạc, kỹ thuật Bảng xếp hạng Lịch sử phát hành Tham khảo Liên kết ngoài Ballad thập niên 2020 Bài hát năm 2022 Folk ballad Bài hát của Taylor Swift Bài hát viết bởi Taylor Swift Bài hát sản xuất bởi Taylor Swift Bài hát sản xuất bởi Aaron Dessner
19858209
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1nh
Khánh
Khánh là một tên người phổ biến tại Việt Nam, ngoài ra còn có thể là: Khánh, nhạc cụ cổ bằng đá hoặc bằng đồng, dày bản, đánh thành tiếng kêu thanh Khánh, nam DJ người Việt Nam
19858214
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87c%20T%E1%BB%AD%20T%E1%BA%BF
Việc Tử Tế
Việc Tử Tế là chương trình truyền hình được thực hiện bởi VTV. Ra mắt từ năm 2015, chương trình Việc Tử Tế với sự đồng hành của Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO). Giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài Chương trình Chương trình truyền hình Chương trình truyền hình Việt Nam Sơ khai truyền hình Sơ khai truyền hình Việt Nam Chương trình trợ giúp xã hội
19858215
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tas
Tas
Tas có thể đề cập đến: Tasmania, bang của Úc, viết tắt Lotus Air (mã ICAO), hãng hàng không Ai Cập Sân bay quốc tế Tashkent (mã IATA), Uzbekistan
19858224
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tem%20b%C6%B0u%20ch%C3%ADnh%20Ukraina%20%281992%29
Tem bưu chính Ukraina (1992)
Tem bưu chính Ukraina năm 1992 là danh mục tem bưu chính được Bưu điện Ukraina đưa vào lưu hành năm 1992. Ukraina tuyên bố độc lập tháng 8 năm 1991, nhưng phải đến năm 1992 thì đất nước này mới thể hiện nền độc lập và bản sắc mình trên tem bưu chính theo Sắc lệnh 21 Ủy ban Truyền thông Nhà nước Ukraina ngày 2 tháng 6 năm 1992 "Về việc đưa tem bưu chính Ukraina đầu tiên vào lưu hành" (). Do đó, tem bưu chính Ukraina độc lập đầu tiên được phát hành vào ngày 1 tháng 3 năm 1992 để kỷ niệm 500 năm người Cossack ở Ukraina và kỷ niệm 100 năm ngày người Ukraina đầu tiên đến Canada định cư. Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 14 tháng 12 năm 1992, 22 bộ tem bưu chính đã được phát hành, trong đó có 14 bộ tem kỷ niệm và 8 tem phổ thông phát hành lần thứ nhất. Chủ đề in trên tem kỷ niệm là về ngày sinh, mất của các chính khách, các nhân vật nổi bật về khoa học và văn hóa, động thực vật đặc trưng, ngày quan trọng và các sự kiện khác. Tem lưu hành có giá mặt 0,15; 0,20; 0,50; 0,70; 1; 1,5; 2; 3; 4; 5; 10; 15; 20 và 50 karbovanet. Con tem đầu tiên do Ukraina độc lập phát hành năm 1992 là "500 năm người Cossack ở Ukraina" có giá mặt 0,15 karbovanet. Bốn tem kỷ niệm đều có chung một chủ đề về đoàn thể thao thống nhất (Liên Xô cũ) tham gia Thế vận hội Mùa hè 25 ở Barcelona. Các tem bưu chính mã số 13, 23, 24, 25, 26, 27, 29 và 30 do Công ty giấy bạc ngân hàng Canada in, mã số 33 in tại , mã số 34 in tại Nhà in Philatelia Hungarica Kft, còn lại đều được in tại nhà in Goznak Moskva. Danh sách tem được sắp xếp theo mã số, giá mặt và ngày lưu hành. Tem kỷ niệm Thứ tự tem được sắp xếp theo mã số tương ứng trong Danh mục tem Ukraina đăng tải trên trang web chính thức của KMD UDPPZ «Ukrposhta» (), đi kèm với mã số danh mục Michel và Scott. Tem phổ thông đầu tiên (1992-1993) Ngày 16 tháng 5 (mã số 19-22) và ngày 17 tháng 6 (mã số 15-18) năm 1992, bộ tem phổ thông đầu tiên của Ukraina độc lập được đưa vào lưu hành. Bộ tem phổ thông đầu tiên (1992-1993) có các giá mặt 0,50; 0,70; 1; 2; 5; 10; 20 và 50 karbovanet. Hình ảnh trên tem được họa sĩ V. I. Dvornyk chọn bản phác thảo của mẫu tem 30 šag năm 1918 của Cộng hòa Nhân dân Ukraina do họa sĩ H. I. Narbut vẽ. Thứ tự được sắp xếp tương ứng với mã số trong Danh mục tem bưu chính Ukraina trên trang web chính thức của Ukrposhta (), đi kèm với mã số danh mục Michel và Scott. Ghi chú Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Tem học Ukraina thế kỷ 20 Thông tin liên lạc ở Ukraina