id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19856470
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3m%20h%E1%BB%8Da%20t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20h%E1%BA%A1t%20nh%C3%A2n%20Kursk
Thảm họa tàu ngầm hạt nhân Kursk
Thảm họa tàu ngầm hạt nhân Kursk (Kursk submarine disaster) là vụ tai nạn kinh hoàng thảm khốc diễn ra đối với tàu ngầm Kursk (K-141) một tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình lớp Oscar-II của Hải quân Nga đã chìm tại Biển Barents vào ngày 12 tháng 8 năm 2000 làm toàn bộ 118 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Vụ tai nạn thảm khốc khiến thành tựu cao nhất của công nghệ tàu ngầm hạt nhân Liên Xô chìm xuống đáy biển. Tai nạn tàu ngầm Kursk trở thành một trong những tai nạn thảm khốc nhất và mất mát lớn nhất trong lịch sử Hải quân nước Nga. Vụ việc cũng thúc đẩy Hải quân Nga cải tổ và nâng cấp hệ thống đảm bảo an toàn trên các tàu ngầm của nước này. Theo các thông tin chính thức, thảm họa xảy ra do một vụ nổ ngư lôi trên tàu nhưng vẫn có rất nhiều giả thuyết khác nhau về tai nạn của chiếc tàu ngầm hạt nhân Kursk đã được đưa ra, bao gồm cả việc tiết lộ rúng động của chính người trong cuộc cho biết vụ việc này là do va chạm với tàu ngầm NATO trên Biển Barents. Diễn biến Trong ngày đầu tiên của cuộc tập trận, Kursk đã phóng thành công tên lửa P-700 Granit lắp đầu đạn giả. Sáng ngày 12 tháng 8 năm 2000, Kursk có lịch phóng 2 quả ngư lôi giả (không mang đầu đạn) vào tàu tuần dương Peter Đại đế. Vào lúc 11h28 giờ địa phương, các máy đo địa chấn ghi nhận hai vụ nổ dưới nước trên biển Barents xảy ra cách nhau 134 giây và Hải quân Nga mất liên lạc với tàu Kursk từ đó. Ngày 12 tháng 8 năm 2000 lúc 11:28 giờ địa phương (07:28 UTC), có một vụ nổ trong khi đang chuẩn bị phóng ngư lôi. Sau vụ nổ, chiếc tàu ngâm Kursk đã từ từ chìm sâu xuống đáy biển Barents, bất chấp hàng loạt biện pháp cứu giúp được tiến hành nhanh chóng, người Nga đã không thể làm gì hơn, toàn bộ 118 thủy thủ và sĩ quan đã hy sinh. Sau 2 vụ nổ, các thủy thủ trên K-141 đã tập trung vào khu vực mà họ cho là an toàn nhất. Thật không may cho phi hành đoàn của Kursk, họ dường như không được đào tạo cũng như không có kinh nghiệm để sử dụng những vũ khí đó. Thuyền trưởng của tàu, Đại úy Dmitri Kolesnikov, dường như đã cố gắng viết tên những người sống sót. Họ cũng dùng nhiều cách để thoát ra ngoài, nhưng mọi nỗ lực đều thất bại vì áp suất nước quá lớn: Tàu đã chìm xuống độ sâu 108m. Có một điều đó là những thủy thủ trên chiếc tàu ngầm xấu số đã hoàn thành nhiệm vụ tới giây phút cuối cùng, còn người Nga thì luôn nhớ đến họ như những anh hùng của Tổ quốc. Kết quả phân tích cho thấy Khoang chứa lò phản ứng hạt nhân và khoang vũ khí, có thể bao gồm một số tên lửa hạt nhân, đã không bị hư hại, và người ta tin rằng, trong tình huống nguy kịch, các thủy thủ trên tàu đã dũng cảm dập tắt đám cháy vô hiệu hóa được lò phản ứng hạt nhân, chặn đứng tai họa thảm khốc quy mô. trong đó có tiết lộ của người trong cuộc về vụ chìm tàu Kursk là hậu quả sau va chạm với một tàu ngầm NATO. Báo cáo đáng tin cậy cho đến nay cho rằng nó bị gây ra do sai sót và vụ nổ của một trong những ngư lôi dùng hydro peroxide trên tàu Kursk. Mọi người tin rằng HTP, một hình thức hydro peroxide rất cô đặc được dùng làm chất đẩy cho thủy lôi, đã thấm qua chỗ rỉ trong vỏ ngư lôi. Một vụ việc tương tự đã làm mất chiếc HMS Sidon năm 1955. Vụ nổ hoá chất với sức mạnh tương đương 100-250 kg TNT và tạo ra chấn động 2.2 trên thang Richter. Chiếc tàu ngầm chìm xuống độ sâu , khoảng 135 km (85 dặm) từSeveromorsk, tại . Một vụ nổ thứ hai 135 giây sau vụ nổ đầu tiên ở mức 3.5 tới 4.4 độ Richter, tương đương với 3-7 tấn TNT. Một trong những vụ nổ đó đã thổi bay những mảnh vỡ lớn xuyên qua tàu ngầm. Báo cáo của Hải quân Nga cho rằng High-test peroxide (HTP), một dạng hydrogen peroxide đậm đặc được sử dụng làm chất đẩy cho ngư lôi, đã thấm qua một mối hàn bị lỗi. Hóa chất này khi gặp xúc tác sẽ nở ra với hệ số 5000, phản ứng oxy hóa tạo ra áp suất mạnh làm vỡ thùng nhiên liệu chứa dầu hỏa và gây ra vụ nổ thứ hai của các ngư lôi trong khoang hai phút sau đó. Tàu ngầm K-18 Karelia gần đó đã ghi nhận vụ nổ, nhưng thuyền trưởng lại cho rằng đó là một phần của cuộc tập trận. Trên tàu tuần dương Peter Đại đế, thủy thủ đoàn đã phát hiện tín hiệu thủy âm đặc trưng của một vụ nổ dưới nước và cảm thấy thân tàu rung lên. Tuy nhiên báo cáo của họ với hạm đội Biển Bắc đã không được chú ý. Nhận định Theo kết luận của Ủy ban điều tra của chính phủ Nga, con tàu bị đắm do một vụ nổ xảy ra khi nó chuẩn bị phóng thủy lôi vào một mục tiêu giả định. Mặc dù vậy vẫn còn nhiều giả thuyết về nguyên nhân thực sự đằng sau thảm kịch này. Thậm chí mới hồi tháng trước, trả lời phỏng vấn hãng tin Sputnik, Đô đốc Vyacheslav Popov, cựu chỉ huy Hạm đội phương Bắc của Nga giai đoạn 1999-2001 nói rằng vụ đắm tàu ngầm hạt nhân Kursk là kết quả của một vụ va chạm với một tàu ngầm NATO. Đầu năm 2001, một tập đoàn Hà Lan được chính phủ Nga ký hợp đồng trục vớt tàu Kursk, không bao gồm phần mũi. Họ cắt rời hẳn mũi tàu khỏi phần thân trước khi nâng lên, đưa về cảng Severomorsk và đặt vào ụ nổi để phân tích. Năm 2002, người Nga thu hồi một số mảnh vỡ ngư lôi và ống phóng, trước khi cho phá hủy hoàn toàn mũi tàu bằng thuốc nổ. Có rất nhiều giả thuyết khác nhau về tai nạn của chiếc tàu ngầm hạt nhân Kursk đã được đưa ra, nhiều người cho rằng thảm họa xảy ra do có lỗi trong phần thiết kế hay Nga đã vi phạm những quy định bảo dưỡng vũ khí, nhưng cũng có có tiết lộ của người trong cuộc về vụ chìm tàu Kursk là hậu quả sau va chạm với một tàu ngầm NATO. Có giả thuyết thì cho rằng, tàu ngầm Kursk bị một tàu ngầm của Mỹ đang hoạt động trên biển Barents bắn nhầm và hai bên đã thương thảo để ém chặt vụ việc nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự có thể đẩy cả thế giới vào cảnh đen tối. Trong khi đó, theo kết luận cuối cùng của Ủy ban Điều tra của Chính phủ Nga, nguyên nhân của vụ chìm tàu là do một vụ nổ xảy ra trong khi tàu đang chuẩn bị phóng thủy lôi vào một mục tiêu giả định khi tập trận. Truyền thông Nga cũng như truyền thông nước ngoài xác định tàu ngầm USS Memphis, USS Toledo (của Mỹ) và HMS Splendid (của Anh) có mặt gần khu vực tập trận khi đó. Bộ Quốc phòng Nga đã đề nghị Lầu Năm Góc kiểm tra tàu Memphis và tàu Toledo, nhưng đã bị Mỹ bác bỏ, với lý do tất cả các tàu ngầm này đều đang làm nhiệm vụ và Nga nhận được câu trả lời tương tự từ phía Anh. Trả lời phỏng vấn hãng tin RIA Novosti, cựu đô đốc Vyacheslav Popov nói tàu ngầm của NATO đã vô tình va phải tàu ngầm Kursk khi theo sát tàu ngầm Nga ở khoảng cách gần. Ông Popov là chỉ huy của Hạm đội phương Bắc Nga khi tàu ngầm Kursk gặp nạn và chìm khi đang hoạt động ở biển Barents. Ông Popov từng bị lên án vì phản ứng chậm chạp trong thảm họa tàu ngầm Kursk khi còn là chỉ huy Hạm đội phương Bắc và bị tổng thống cách chức ngay sau đó. Xử lý Việc quân đội Nga chần chừ ứng phó và khước từ sự hỗ trợ của nước ngoài khiến sự cố tàu ngầm Kursk chìm thêm nghiêm trọng. Theo truyền thông phương Tây thì trong khi thảm kịch tàu ngầm Kursk diễn ra ở vùng Biển Bắc, Tổng thống Nga Vladimir Putin, dù đã được thông báo ngay lập tức, đã đợi năm ngày trước khi ngắt quãng kỳ nghỉ tại nhà nghỉ của tổng thống ở Sochi trên bờ Biển Đen và lên tiếng về vụ việc gây mất mặt Hạm đội Biển Bắc này, một năm sau ông đã nói: "Tôi có lẽ đã phải quay lại Moscow sớm hơn, nhưng không điều gì khác sẽ xảy ra. Ở Sochi và Moscow tôi đều nhận được lượng thông tin như nhau, nhưng từ một quan điểm khác tôi đáng ra đã phải thể hiện một số sự nóng ruột để quay trở về." Một sắc lệnh do Tổng thống Vladimir Putin ký đã truy tặng tất cả thủy thủ đoàn Huân chương Dũng cảm, và danh hiệu Anh hùng Liên bang Nga được trao cho thuyền trưởng tàu Kursk Gennady Lyachin. Ở cảng Murmansk, phía Bắc Nga có một đài tưởng niệm, trên đó đặt Cabin điều khiển Kursk vốn được thu hồi nguyên vẹn. Các tượng đài khác được dựng ở thành phố Severodvinsk, Moscow, Sevastopol, Nizhny Novgorod và Severomorsk. Thành phố Kursk, nơi đặt tên cho con tàu, đã dựng một đài tưởng niệm làm từ các mảnh vỡ được trục vớt. Chú thích Tham khảo Chuỗi sự kiện về vụ tàu Kursk - VNExpess Barany, Zoltan (2004). The Tragedy of the Kursk: Crisis Management in Putin's Russia. Government and Opposition 39.3, 476–503. Truscott, Peter (2004): The Kursk Goes Down – pp. 154–182 of Putin's Progress, Pocket Books, London, Timeline of Kursk Disaster Simons, Greg (2012): Communicating Tragedy and Values Through the Mass Media During Crises: The Lessons of Submarine Accidents in Russia in Porfiriev, Boris & Simons, Greg (editors), Crises in Russia: Contemporary Management Policy and Practice from a Historical Perspective, Farnham, Ashgate, pp. 139–174. Liên kết ngoài List of personnel by compartment (Russian) List and pictures of crew members (Russian) News about the Kursk sinking (Russian) In depth coverage by the BBC English Russia – The Remains of the Kursk Submarine, photographs of the recovered wreck Thảm họa
19856473
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20r%E1%BB%95%20n%E1%BB%AF
Bóng rổ nữ
Bóng rổ nữ (Women's basketball) là môn thể thao đồng đội bóng rổ với những vận động viên thi đấu là những nữ giới, là môn thi đấu bóng rổ với luật lệ được thiết kế dành riêng cho nội dung nữ. Bóng rổ nữ được chơi lần đầu tiên vào năm 1892, một năm sau môn bóng rổ nam, tại Cao đẳng Smith ở Massachusetts. Bóng rổ nữ lan rộng khắp Hoa Kỳ, phần lớn thông qua các trận thi đấu dành nội dung nữ và từ đó đã lan rộng trên toàn cầu. Tính đến năm 2020, bóng rổ là một trong những môn thể thao phổ biến nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Có nhiều giải đấu và giải đấu chuyên nghiệp dành cho các vận động viên bóng rổ nữ chuyên nghiệp. Giải đấu chính của Bắc Mỹ là WNBA. Giải bóng rổ nữ thế giới (FIBA) và Giải bóng rổ Olympic nội dung nữ tại Thế vận hội mùa hè có sự góp mặt của các đội tuyển quốc gia hàng đầu từ các giải vô địch châu lục. Ở Hoa Kỳ, Giải vô địch bóng rổ nữ hạng I của NCAA cũng rất phổ biến. Ở châu Âu, các câu lạc bộ bóng rổ nữ mạnh nhất châu Âu tham gia EuroLeague Women. Tổng quan Bóng rổ là môn thể thao đồng đội trong đó hai đội, phổ biến nhất là có năm người chơi, mỗi đội đối đầu nhau trên sân hình chữ nhật, thi đấu với mục tiêu chính là bắn bóng rổ qua vòng của hậu vệ. Luật bóng rổ nữ giống hệt luật bóng rổ nam. Sự khác biệt đáng chú ý nhất là chu vi của bóng rổ nữ, nhỏ hơn bóng rổ nam. Quả bóng nhỏ hơn được thiết kế và ra mắt để sử dụng thi đấu tại NCAA vào mùa thu năm 1984. Quả bóng WNBA quy định có kích cở chu vi tối thiểu là 28,5cm, nhỏ hơn so với quả bóng NBA. Đây là quả bóng cỡ 6 tiêu chuẩn. Tính đến năm 2008, kích thước này được sử dụng cho tất cả các cuộc thi cấp cao dành cho nữ trên toàn thế giới. Hầu hết các cuộc thi đấu bóng rổ ở trường trung học (thể thao sinh viên) đều được chơi trong bốn hiệp, mỗi hiệp 8 phút, trong khi các trò chơi của NCAA, WNBA và FIBA ​​được chơi trong bốn hiệp, mỗi hiệp 10 phút. Trong năm 2015–2016, NCAA đã thay đổi luật chơi thành các hiệp 10 phút thay vì các hiệp 20 phút. Luật WNBA đã loại bỏ pha nhảy bóng ở đầu hiệp hai. Sinh viên năm nhất của Berenson thi đấu trong trận đấu bóng rổ sinh viên đầu tiên dành cho nữ được tổ chức vào ngày 22 tháng 3 năm 1893. Đại học California và Miss Head's School, đã có cuộc thi đấu ngoại khóa đầu tiên dành cho nội dung nữ vào năm 1892. Cũng trong 1893, trường Cao đẳng Mount Holyoke và Cao đẳng Sophie Newcomb, được Clara Gregory Baer (người phát minh ra Newcomb ball) huấn luyện và thế là giới nữ bắt đầu chơi bóng rổ. Đến năm 1895, nội dung bóng rổ nữ đã lan rộng đến các trường cao đẳng trên toàn quốc, bao gồm Cao đẳng Wellesley, Cao đẳng Vassar và Cao đẳng Bryn Mawr. Trận đấu đầu tiên dành cho nội dung nữ giữa các trường đại học diễn ra vào ngày 4 tháng 4 năm 1896. Đội nữ Stanford đấu với đội nữ California với 9 đấu 9, kết thúc với chiến thắng 2-1 của Stanford. Clara Gregory Baer xuất bản cuốn sách đầu tiên về luật chơi bóng rổ nữ vào năm 1895, lần đầu tiên cô gọi trò chơi là 'Basquette', sau đó Luật bóng rổ của Trường đại học Newcomb, xuất bản năm 1908. Mặc dù tham gia vào trận đấu bóng rổ nữ liên trường đầu tiên, ủy ban thể thao của khoa Stanford đã cấm thi đấu liên trường dành cho thể loại nữ, đầu tiên là trong các môn thể thao đồng đội như bóng rổ và sau đó mở rộng sang tất cả các môn thể thao, và Cal (cũng như nhiều trường đại học danh tiếng khác vào thời điểm đó) cũng làm theo. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Senda Berenson papers, Smith College Archives, CA-MS-00037, Smith College Special Collections, Northampton, Massachusetts. Xem thêm Bóng rổ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 – Nữ Bóng rổ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 – Nữ Bóng rổ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 - 3x3 Nữ Đội tuyển bóng rổ nữ quốc gia Indonesia Trương Thảo My Bóng rổ Thể thao nữ
19856476
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thunderbolts%20%28phim%29
Thunderbolts (phim)
Thunderbolts (tạm dịch Tiếng Việt: Biệt đội phản anh hùng) là bộ phim thể loại siêu anh hùng Mỹ sắp ra mắt, dựa theo nguyên tác nhóm siêu anh hùng cùng tên của Marvel Comics. Bộ phim được sản xuất bởi Marvel Studios và phát hành bởi Walt Disney Studios Motion Pictures, phim dự định là bộ phim thứ 36 của Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU). Phim được đạo diễn bởi Jake Schreier và viết kịch bản bởi Eric Pearson, Lee Sung Jin và Joanna Calo, cùng với đó là sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm Sebastian Stan, Hannah John-Kamen, Wyatt Russell, Julia Louis-Dreyfus, Florence Pugh, David Harbour, Olga Kurylenko, Harrison Ford và Lewis Pullman. Trong phim, một nhóm phản anh hùng được giao nhiệm vụ từ chính phủ. Marvel Studios hé lộ về việc thành lập nhóm Thunderbolts trong MCU vào năm 2021. Bộ phim tiết lộ được phát triển vào tháng 6 năm 2022, khi Schreier và Pearson tham gia đội ngũ làm phim. Dàn diễn viên chính của bộ phim đã được tiết lộ vào tháng 9, sau đó là tuyển diễn viên bổ sung đến đầu năm 2023. Lee tham gia viết lại kịch bản của bộ phim vào tháng 3 năm 2023, một trong số những nhà sáng tạo đã quay lại làm việc với Schreier từ loạt phim Netflix Beef. Quá trình sản xuất bị trì hoãn do tranh chấp lao động ở Hollywood năm 2023 khiến một số diễn viên phải rời dự án và bị thay thế vào đầu năm 2024, khi Calo tham gia. Quá trình quay phim bắt đầu vào tháng 2 năm 2024 và sẽ kéo dài đến tháng 7 tại Trilith Studios và Atlanta Metro Studios ở Atlanta, Georgia cũng như ở Utah và New York. Thunderbolts dự kiến phát hành tại Mỹ vào 2 tháng 5 năm 2025 là bộ phim cuối cùng thuộc Giai đoạn 5 của MCU. Tiền đề Một nhóm phản anh hùng được giao nhiệm vụ từ chính phủ. Diễn viên Sebastian Stan vai Bucky Barnes: Một siêu chiến binh và là thủ lĩnh thực tế của Thunderbolts. Được cho là đã thiệt mạng trong Thế chiến thứ hai, anh tái xuất ở hiện tại với tư cách là một sát thủ bị tẩy não trước khi được chữa khỏi. Hannah John-Kamen vai Ava Starr / Ghost: Một thành viên của Thunderbolts có tính không ổn định về phân tử, có thể xuyên qua các vật thể. Wyatt Russell vai John Walker / U.S. Agent: Một siêu chiến binh và thành viên Thunderbolts. Anh là cựu Đội trưởng Biệt động quân đội Mỹ được tặng thưởng huân chương và trở thành Captain America trước khi bị chính phủ Mỹ giải ngũ một cách nhục nhã. Julia Louis-Dreyfus vai Valentina Allegra de Fontaine: Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, người làm việc với Belova và Walker.. Florence Pugh vai Yelena Belova: Một thành viên của Thunderbolts được huấn luyện trong Red Room với tư cách là Góa phụ đen. David Harbour vai Alexei Shostakov / Red Guardian: Một thành viên của Thunderbolts, là siêu chiến binh người Nga tương đương với Captain America và là cha của Belova. Harbor cho biết bộ phim khám phá sâu hơn về mối quan hệ phức tạp giữa Belova và Shostkov đã được giới thiệu trong Black Widow (2021). Anh lưu ý rằng Belova không thể chịu đựng được Shostkov, nhưng cô ấy cần ai đó giúp cô cảm thấy trọn vẹn và Shostkov có thể đảm nhận vai trò đó. Olga Kurylenko vai Antonia Dreykov / Taskmaster: Một thành viên của Thunderbolts với phản xạ cho phép cô bắt chước phong cách chiến đấu của đối thủ. Trước đây cô được cha mình là Dreykov điều khiển để hoàn thành các nhiệm vụ cho Red Room trước khi được Natasha Romanoff, chị gái của Belova giải thoát. Harrison Ford vai Thaddeus "Thunderbolt" Ross: Tổng thống Mỹ. Ông trước đây là tướng quân đội Mỹ và sau đó là Ngoại trưởng Mỹ. Lewis Pullman vai Sentry Ngoài ra, Geraldine Viswanathan đã được chọn vào vai trợ lý của de Fontaine, trong khi Laurence Fishburne và Rachel Weisz dự kiến ​​sẽ tiếp tục đảm nhận vai trò MCU của họ là Bill Foster và Melina Vostokoff. Sản xuất Phát triển Trong quá trình sản xuất Guardians of the Galaxy (2014), đạo diễn James Gunn bày tỏ sự quan tâm đến một bộ phim dựa trên nhóm Thunderbolts của Marvel Comics. Chủ tịch Marvel Studios Kevin Feige cho biết đây là khả năng dựa trên sự thành công của Guardians of the Galaxy, nhưng Gunn không còn hứng thú với năm 2021 nữa, sau khi đạo diễn The Suicide Squad (2021), bởi đội ngũ đó từ DC Comics cũng tương tự như vậy. khái niệm về Thunderbolts. Vào tháng 6 năm 2018, Hannah John-Kamen bày tỏ sự hào hứng với việc tái hiện vai diễn Ant-Man and the Wasp (2018) của Ava Starr / Ghost trong phim Thunderbolts (phiên bản truyện tranh của Ghost là một thành viên của nhóm). Suy đoán rằng nhóm Thunderbolts sẽ được giới thiệu vào Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU) bắt đầu vào giữa năm 2019 sau thông báo rằng Daniel Brühl sẽ xuất hiện với vai Helmut Zemo trong loạt phim Disney+ The Falcon and the Winter Soldier (2021), đảm nhận vai trò của anh ấy từ Đội trưởng Mỹ: Nội chiến (2016). Loạt phim đó đã giới thiệu Julia Louis-Dreyfus trong vai Valentina Allegra de Fontaine và cho thấy cô ấy đang chiêu mộ John Walker / Đặc vụ Hoa Kỳ của Wyatt Russell. De Fontaine cũng được cho là sẽ hợp tác với Yelena Belova của Florence Pugh trong phim Black Widow (2021). Các nhà bình luận suy đoán rằng cô ấy đang chiêu mộ một đội gồm những nhân vật phản diện hoặc phản anh hùng như Thunderbolts, và một số người cảm thấy đội đó có thể xuất hiện trong The Falcon and the Winter Soldier. Nhà sản xuất điều hành Nate Moore cho biết Thunderbolts chưa bao giờ được xem xét cho dự án vì chúng sẽ "che mờ câu chuyện" và lấy đi các khía cạnh khác của loạt phim. Người viết chính Malcolm Spellman cảm thấy có "rất nhiều cuộc bàn tán" xung quanh phần giới thiệu tiềm năng của nhóm về MCU và tuyên bố, "Tôi không biết người hâm mộ có điên hay không". Đến tháng 6 năm 2022, Jake Schreier được bổ nhiệm làm đạo diễn Thunderbolts, từ kịch bản của Eric Pearson, với Feige sản xuất. Schreier được thuê sau buổi thuyết trình khiến các giám đốc điều hành của Marvel Studios "thổi hồn". Vào thời điểm đó, hãng phim đã liên hệ với các diễn viên để thảo luận về khả năng họ sẵn sàng đảm nhận vai diễn của họ trong phim. Các nhà bình luận gợi ý rằng đội có thể bao gồm các nhân vật như Zemo, Belova, Taskmaster, Đặc vụ Hoa Kỳ, Ghost, Abomination, Bucky Barnes hoặc Clint Barton, với de Fontaine hoặc Zemo dẫn đầu đội. Deadline Hollywood cũng gợi ý rằng Thaddeus "Thunderbolt" Ross có thể được chọn lại cho bộ phim sau cái chết của nam diễn viên gốc William Hurt, vì nhân vật đó đã mối quan hệ chặt chẽ với đội trong truyện tranh. ComicBook.com cảm thấy Marvel Studios có thể thay thế Ross bằng nhân vật Robert Maverick, nhân vật thứ hai trở thành Red Hulk trong truyện tranh, thay vì chọn lại Ross. Bộ phim được công bố chính thức vào tháng 7 tại San Diego Comic-Con, với ngày phát hành là 26 tháng 7 năm 2024. Đây được coi là bộ phim cuối cùng trong Giai đoạn Năm của MCU. Tiền sản xuất Vào tháng 9 năm 2022, Justin Kroll của Deadline Hollywood mô tả bộ phim như một phần phụ của Belova khi cô ấy sẽ lãnh đạo đội phản anh hùng, với Pugh, Russell và Brühl được cho là sẽ đảm nhận vai trò của họ. Tại D23 Expo cùng tháng, Pugh, Russell, John-Kamen và Louis-Dreyfus đã được xác nhận sẽ đóng vai chính, cùng với Sebastian Stan trong vai Barnes, David Harbor trong vai Alexei Shostkov / Red Guardian, và Olga Kurylenko trong vai Antonia Dreykov / Taskmaster, tất cả đều đảm nhận vai trò của mình từ các dự án MCU trước đó. Harbor cho biết bộ phim sẽ là bộ phim độc nhất vô nhị trong MCU, mô tả dàn diễn viên chính là "một nhóm người lạc lõng, bị ruồng bỏ và thất bại và những người không thực sự xứng tầm với siêu anh hùng". Pugh được ấn định được trả 8 con số cho Thunderbolts và một bộ phim MCU khác. Vào cuối tháng, Jeff Sneider của Above the Line đưa tin rằng Harrison Ford là lựa chọn hàng đầu của Marvel Studios để thay thế Hurt trong vai Ross, và Marvel đã lên kế hoạch công bố vai diễn của anh ấy tại D23 trước khi chủ tịch Lucasfilm Kathleen Kennedy yêu cầu họ không làm vậy. vì cô ấy cảm thấy điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến việc quảng bá Indiana Jones and the Dial of Destiny (2023) của họ. Sneider không chắc liệu Ford có đảm nhận vai trò này hay không. Vào giữa tháng 10, Sneider đưa tin rằng Ford đã được chọn vào vai Ross và sẽ xuất hiện lần đầu trong Captain America: Brave New World (2025). Việc Ford tham gia Brave New World và Thunderbolts đã được xác nhận ngay sau đó. Louis-Dreyfus xác nhận vào tháng 1 năm 2023 rằng việc quay phim sẽ bắt đầu vào tháng 6, và Ayo Edebiri sẽ được chọn vào một vai không được tiết lộ. Steven Yeun được giao một vai quan trọng cho Thunderbolts vào tháng 2 năm 2023, có khả năng tiếp tục tham gia các bộ phim MCU trong tương lai. Yeun đã làm việc với Schreier trên loạt phim Netflix Beef và đạo diễn đã nghĩ đến nam diễn viên khi thêm nhân vật này vào phim. Tháng sau, Lee Sung Jin tiết lộ rằng anh đã tham gia bộ phim để viết lại kịch bản theo yêu cầu của Schreier; Lee cũng hợp tác với Schreier trên Beef do Lee tạo ra. Lee cho biết có "rất nhiều chủ đề và điều thú vị" về bộ phim đã thu hút anh đến với dự án. Anh ấy đang hợp tác chặt chẽ với Schreier về kịch bản, nhưng lưu ý rằng, không giống như Beef, Thunderbolts là dự án của Schreier và có những nhu cầu viết khác nhau do phạm vi và quy mô lớn của bộ phim. Sneider báo cáo rằng kịch bản của Pearson đã tập trung quá nhiều vào các nhân vật Black Widow mà khán giả đã quen thuộc, và Marvel Studios đang tìm kiếm những nhân vật khác có vai trò công bằng hơn nên nó giống như một bộ phim tổng hợp. Grace Yun đảm nhận vai trò thiết kế sản xuất vào tháng 4 sau khi làm như vậy với Beef, và nhà quay phim Steve Yedlin đang thực hiện bộ phim ở Atlanta, Georgia vào tháng 5. Sanja Milkovic Hays từng là nhà thiết kế trang phục sau khi làm việc trước đó trong Captain Marvel (2019) và Spider-Man: No Way Home (2021). Vào đầu tháng 5, việc quay phim bị trì hoãn do cuộc đình công của Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ năm 2023 và dự kiến ​​sẽ tiếp tục sau khi cuộc đình công kết thúc. Tháng sau, Ủy ban Điện ảnh Utah thông báo rằng Thunderbolts sẽ được quay ở Quận Emery và Quận Grand, Utah, vào giữa năm 2023, chi hơn 4,5 triệu đô la cho bang này. Nhà sản xuất điều hành Brian Chapek cho biết đây sẽ là một bộ phim có căn cứ hơn lấy bối cảnh khắp thế giới với một số địa điểm thực tế. Vào giữa tháng 6, ngày phát hành của bộ phim được lùi lại đến ngày 20 tháng 12 năm 2024. Khi cuộc đình công SAG-AFTRA 2023 kết thúc vào tháng 11 năm 2023, ngày phát hành của bộ phim lại bị đẩy lùi, lần này là đến ngày 25 tháng 7, 2025. Vào thời điểm đó, tác giả truyện tranh Robert Kirkman, một người bạn thân của Yeun, tiết lộ rằng Yeun đã được chọn vào vai Sentry. Russell bày tỏ sự tin tưởng rằng bộ phim sẽ thú vị, vui nhộn và không phải là một bộ phim Marvel "đơn giản", và cho biết anh sẽ bắt đầu quay phim vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm 2024; vào tháng 1, Stan cho biết anh sẽ bắt đầu quay phim "trong khoảng một tháng nữa". Cũng trong tháng đó, Yeun rời bỏ vai diễn của mình do vấn đề về lịch trình do bộ phim bị trì hoãn sản xuất, nhưng bày tỏ sự quan tâm đến việc làm việc cho một bộ phim MCU trong tương lai. Ban đầu vẫn chưa rõ liệu Marvel có diễn lại hay suy nghĩ lại về vai trò của Yeun hay không, nhưng Lewis Pullman được tiết lộ là lựa chọn hàng đầu của hãng phim để thay thế Yeun làm Sentry vào cuối tháng 1, và anh ấy casting đã sớm được xác nhận. Ngoài ra, Laurence Fishburne và Rachel Weisz được cho là sẽ đảm nhận các vai diễn trong MCU của họ với tư cách là Bill Foster và Melina Vostokoff , và Geraldine Viswanathan được chọn vào vai phụ hài hước là trợ lý của de Fontaine, thay thế Edebiri sau khi cô ấy đóng vai phụ hài hước. đã rời bỏ bộ phim do lịch chiếu bị trì hoãn. Vào tháng 2, ngày phát hành của bộ phim được dời sang ngày 2 tháng 5 năm 2025, đổi chỗ cho The Fantastic Four. Joanna Calo đang viết lại kịch bản vào cuối tháng đó. Các bản thảo trước đó tập trung vào việc đội chính thức thực hiện một nhiệm vụ mà họ dự định sẽ chết. Quay phim Việc quay phim ban đầu dự kiến ​​bắt đầu vào giữa tháng 6 năm 2023 và kéo dài trong sáu tháng. Ban đầu dự kiến ​​dự kiến ​​sẽ không bị ảnh hưởng bởi cuộc đình công của các nhà biên kịch, Marvel Studios được cho là đang lên kế hoạch quay những gì họ có thể trong quá trình chụp ảnh chính và thực hiện bất kỳ điều chỉnh văn bản cần thiết nào trong quá trình quay lại bộ phim đã được lên lịch; tuy nhiên, việc quay phim cuối cùng đã bị trì hoãn do cuộc đình công của các nhà biên kịch và cuộc đình công SAG-AFTRA sau đó. Harbor đã lên kế hoạch quay các cảnh của anh ấy cho bộ phim đồng thời với mùa thứ năm của Stranger Things, cũng ở Atlanta, trước khi quá trình sản xuất đó cũng bị trì hoãn do cuộc đình công của các nhà biên kịch. Quá trình chụp ảnh chính bắt đầu vào ngày 26 tháng 2 năm 2024, tại Trilith Studios và Atlanta Metro Studios ở Atlanta, với tựa đề Oops All Berries, ám chỉ đến một biến thể của loại ngũ cốc Cap'n Crunch chỉ có những miếng có hương vị quả mọng. Andrew Droz Palermo đóng vai trò là nhà quay phim, sau khi làm việc cho loạt phim Moon Knight (2022) của Marvel Studios. Việc quay phim cũng dự kiến ​​​​sẽ diễn ra ở Quận Emery và Quận Grand, Utah, và ở New York. Dự kiến ​​nó sẽ kéo dài đến tháng 7 năm 2024. Hậu kỳ Harry Yoon và Angela M. Catanzaro đóng vai trò biên kịch cho bộ phim. Yoon trước đây đã từng làm việc cho Shang-Chi và huyền thoại Thập Luân (2021) và Beef. Phát hành Thunderbolts dự kiến ​​​​được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 5 năm 2025. Trước đó nó được lên lịch vào ngày 26 tháng 7 năm 2024, ngày 20 tháng 12 năm 2024, và ngày 25 tháng 7 năm 2025. Phim là bộ phim cuối cùng thuộc giai đoạn 5 của MCU. Tham khảo Liên kết ngoài Thunderbolts trên Marvel.com Phim quay tại New York Phim quay tại Atlanta Phim tiếng Anh Phim siêu anh hùng của Mỹ Phim hành động khoa học viễn tưởng Mỹ Phim siêu anh hùng thập niên 2020 Phim Mỹ thập niên 2020 Phim hành động thập niên 2020 Phim năm 2025 Phim chưa ra mắt
19856478
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trump%20Plaza
Trump Plaza
Trump Plaza là một khách sạn và sòng bạc tọa lạc trên khu Boardwalk tại thành phố Atlantic, New Jersey, do Trump Entertainment Resorts sở hữu. Công trình do kiến trúc sư Alan Lapidus thiết kế và hoạt động từ ngày 14 tháng 5 năm 1984 đến ngày 16 tháng 9 năm 2014. Lịch sử Những năm đầu Tập đoàn The Trump Organization do Donald Trump sở hữu, đã khởi công dự án sòng bạc vào tháng 6 năm 1982. Harrah's (bộ phận trò chơi của Holiday Inn) đã hợp tác chỉ sau một tháng. Trump sẽ giám sát việc xây dựng, trong khi Harrah's sẽ quản lý khu nhà Harrah's Boardwalk sau khi khi trương. Ngày 14 tháng 5 năm 1984, khu bất động sản mang tên Harrah's tại Trump Plaza chính thức đi vào hoạt động. Nơi đây sở hữu 614 phòng nghỉ, bảy nhà hàng, một câu lạc bộ sức khỏe, một phòng trưng bày có sức chứa 750 chỗ ngồi và một sòng bạc rộng 60.000 mét vuông. Toàn bộ khu phức hợp tọa lạc trên mảnh đất hẹp rộng 2,6 mẫu Anh (tương đương 1,1 ha) cạnh Caesars Atlantic City. Vài tháng sau khi khai trương, sòng bài đổi tên thành Trump Plaza đơn giản để tránh nhầm lẫn với Harrah's Marina. Lý do cho việc đổi tên này một phần là do Harrah's thường thu hút những người chơi có vốn thấp, trong khi Trump Plaza lại hướng đến khách hàng cao cấp với 85 dãy phòng sang trọng, vốn ít khi được sử dụng. Trong nửa đầu năm 1985, Sòng bạc hoạt động kém hiệu quả với lợi nhuận trước thuế chỉ 144.000 USD. Kết quả kinh doanh tồi tệ này càng làm trầm trọng thêm mâu thuẫn giữa Trump và Harrah's, dẫn đến việc Trump mua lại quyền lợi của Harrah's trong sòng bạc với giá 70 triệu USD vào tháng 5 năm 1986. Vào năm 1989, Trump đã bỏ ra 62 triệu USD để sở hữu Khách sạn và Sòng bạc Penthouse Boardwalk đang trong quá trình hoàn thiện ở khu vực lân cận. Trump đã mở rộng Plaza sang địa điểm Penthouse, đổi tên thành Trump Plaza Hotel và Casino East Tower. Trump cũng chi 63 triệu USD mua lại Khách sạn sòng bạc Atlantis đang phá sản. Khách sạn này tọa lạc riêng biệt với Trump Plaza bởi Hội trường Hội nghị Thành phố Atlantic. Sau khi mua lại, Trump đổi tên nơi đây thành Trump Regency, biến nó thành khách sạn phụ cho Plaza. Trump Plaza là nơi tổ chức hai sự kiện đấu vật lớn WrestleMania IV và WrestleMania V vào các năm 1988 và 1989. Mặc dù Liên đoàn Đấu vật Thế giới thông báo tổ chức tại Trump Plaza, nhưng thực tế Trump chỉ đóng vai trò tài trợ cho cả hai sự kiện diễn ra tại Hội trường Atlantic City Boardwalk. Từ năm 1985 đến năm 1998, khách sạn này cũng là nơi tổ chức 19 sự kiện quyền anh chuyên nghiệp. Tháng 5 năm 1990, sòng bạc này là nơi diễn ra một phiên chơi baccarat nổi tiếng. Tay chơi bài cao cấp người Nhật tên Akio Kashiwagi đã thua 10 triệu USD trong ván bài này. Vụ việc này sau đó được tái hiện trong bộ phim Casino của đạo diễn Martin Scorsese. Năm 1990, doanh thu của Trump Plaza sụt giảm nghiêm trọng do sự cạnh tranh từ Trump Taj Mahal, cơ sở kinh doanh mới mở của tập đoàn, chỉ cách đó một dặm. Sòng bạc đã thế chấp nhà để xe với giá 25 triệu USD để tránh vỡ nợ khoản thanh toán cho các trái chủ vào năm 1991. Sau đó, Trump thương lượng tái cơ cấu nợ với các chủ nợ của Plaza. Theo thỏa thuận, khoản nợ 250 triệu USD được đổi lấy 200 triệu USD trái phiếu lãi suất thấp và 100 triệu USD cổ phiếu ưu đãi. Kế hoạch này được đệ trình dưới dạng đơn phá sản đóng gói sẵn vào tháng 3 năm 1992. Năm 1993, Trump Plaza rục rịch khởi động dự án mở rộng trị giá 42 triệu USD. Kế hoạch này bao gồm phá dỡ sòng bạc Penthouse đang xây dựng dang dở, mở rộng thêm 30.000 feet vuông không gian chơi game, và biến tòa nhà Holiday Inn cũ thành Tháp phía Đông của Trump Plaza với 361 phòng khách sạn sang trọng. Năm 1995, Trump đã chuyển nhượng quyền sở hữu Trump Plaza cho công ty giao dịch đại chúng Trump Hotels & Casino Resorts. Sau đó, công ty này cũng mua lại khách sạn Trump Regency. Tháp Đông đã mở cửa trong hai giai đoạn, lần đầu tiên vào tháng 10 năm 1995 và lần thứ hai vào tháng 2 năm 1996. Sau đó, vào tháng 5 năm 1996, Hội chợ Thế giới Trump đã được khai mạc như một phần của quá trình mở rộng. Đây là một dự án cải tạo của Trump Regency với tổng chi phí lên tới 48 triệu đô la, bao gồm một sòng bạc bổ sung, được kết nối với Trump Plaza qua một hành lang đối diện Hội trường Thành phố Atlantic. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2011, Trump Entertainment Resorts thông báo họ sẽ quyết định trong vòng hai tháng về việc bán sòng bạc Trump Plaza hoặc cải tạo và mở rộng nó. Vào tháng 2 năm 2013, công ty đề xuất bán tài sản này với giá 20 triệu USD cho Meruelo Group, một công ty có trụ sở tại California sở hữu Grand Sierra Resort ở Reno. Meruelo dự định đầu tư mạnh vào Trump Plaza và đổi tên nó. Tuy nhiên, thỏa thuận này thất bại vì Carl Icahn, chủ nợ cấp cao của khoản thế chấp Trump Plaza, không chấp thuận việc bán với giá đề xuất. Đóng cửa Ngày 12 tháng 7 năm 2014, tin tức về việc Khách sạn và Sòng bạc Trump Plaza sắp đóng cửa vào ngày 16 tháng 9 năm 2014 đã gây xôn xao dư luận. Lý do được đưa ra là nếu không tìm được người mua, khách sạn buộc phải đóng cửa, dẫn đến việc khoảng 1.000 nhân viên sẽ mất việc làm. Đầu tháng 8 năm 2014, Donald Trump đã đệ đơn kiện yêu cầu gỡ bỏ tên của ông khỏi cơ sở này. Lý do là vì khách sạn đã xuống cấp nghiêm trọng, vi phạm thỏa thuận cấp phép sử dụng tên của ông. Trump Plaza đóng cửa vĩnh viễn vào ngày 16 tháng 9 năm 2014. Các tiện nghi Trump Plaza sở hữu 906 phòng khách sạn, mang đến cho du khách 5 lựa chọn phong cách phòng khác nhau. Bên cạnh đó, khách sạn còn cung cấp một số tiện nghi dành cho khách lưu trú như hồ bơi và trung tâm thể dục thể thao. Sòng bạc Trump Plaza có diện tích 8.471 mét vuông (91.181 feet vuông) dành cho hoạt động cá cược, với các trò chơi phổ biến như máy đánh bạc, video poker, blackjack, poker, craps, roulette, baccarat và nhiều trò chơi khác. Trump Plaza sở hữu một hộp đêm mang tên Liquid Bar và Jezebel's, cùng với một quán bar trên bãi biển có tên The Beach Bar. Sự kiện Sòng bạc này thường xuyên tổ chức các trận đấu quyền Anh và võ thuật tổng hợp. Đặc biệt nổi bật là trận đấu được truyền hình trực tiếp giữa hai võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp Mike Tyson và José Ribalta vào ngày 17 tháng 8 năm 1986. Chú thích Bất động sản Donald Trump
19856481
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tobiko
Tobiko
Trong ẩm thực Nhật Bản, là trứng của cá chuồn, thường thấy trong các món sushi, sashimi cũng như nhiều món ăn khác. Trứng có màu đỏ cam, ăn giòn, vị hơi mặn, kích thước chỉ khoảng từ 0,5 đến 0,8 mm, lớn hơn masago (trứng cá trứng) nhưng nhỏ hơn ikura (trứng cá hồi). Trứng này có thể được nhuộm màu bằng các cách tự nhiên để hợp với món ăn, chẳng hạn như màu đen từ mực của cá mực, màu cam nhạt hoặc vàng từ bưởi yuzu hoặc đôi khi là màu xanh lá kèm vị cay nồng từ mù tạt wasabi. Một suất tobiko có thể gồm nhiều phần, mỗi phần có một màu khác nhau. Khi ăn cùng sashimi, tobiko thường đi kèm những lát bơ, còn với sushi, nhất là maki sushi, trứng sẽ được rắc lên trên. Sushi cuộn California, phiên bản phương Tây của sushi truyền thống, cũng được ăn kèm tobiko. Trong nhiều trường hợp, masago sẽ được dùng thay cho tobiko do có sự tương đồng về cảm quan và mùi vị. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Ẩm thực Nhật Bản
19856492
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%E1%BB%99ng%20Nga
Chuộng Nga
Tâm lý Chuộng Nga (Russophilia) hay thân Nga hay còn gọi là yêu nước Nga (Love of Russia) cũng được gọi là chứng cuồng Nga là tâm lý, tình cảm yêu mến nước Nga (bao gồm cả sự hoài niệm thời kỳ Liên Xô và/hoặc thời đại Đế quốc Nga xa xưa), tình cảm ngưỡng mộ lịch sử nước Nga, yêu thích văn hóa Nga và thiện cảm dành cho con người Nga. Đối lập với tâm lý chuộng Nga chính là thái độ bài Nga (Russophobia) hay tư tưởng chống Nga (Anti-Russian sentiment). Vào thế kỷ XIX, tâm lý chuộng Nga thường được liên kết với các biến thể của chủ nghĩa toàn Slav vì Đế quốc Nga và vùng Serbia tự trị là hai quốc gia có chủ quyền Slav duy nhất trong và sau các cuộc cách mạng của năm 1848 (gọi là Mùa xuân của các dân tộc). Một số nước Việt Nam Liên bang Xô Viết trước đây hay nước Nga ngày nay có một vị trí đặc biệt trong tình cảm phần lớn người Việt Nam. Nhận thức tích cực về Nga tại Việt Nam có tỷ lệ cao, theo một khảo sát thì có 83% người dân Việt Nam nhìn nhận ảnh hưởng của Nga một cách tích cực trong một cuộc khảo sát năm 2017, điều này bắt nguồn từ sự hỗ trợ mang tính lịch sử của Liên Xô (và Nga Sô) đối với Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam như là người ơn (ân nhân) để lại những ân tình, ơn nghĩa mà hàng triệu người Việt Nam thời trước đã có tình cảm sâu nặng, dạt dào với đất nước và con người xứ sở Bạch Dương. Sự gần gũi, thân thương là cảm xúc chung của những người Việt Nam từng công tác, lao động, học tập tại nước Nga (Liên Xô) trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ và thời kỳ bao cấp khốn khó ở Việt Nam. Lớp người cũ này (đa số ở thế hệ 6x-7x) khi ở Nga đã ghi dấu những tình cảm gắn bó, ngưỡng mộ, khắc khoải với đất nước Nga khi tiếp xúc với sự nhiệt tình, nồng hậu, nhân ái của những giáo viên, người bạn Nga và những ấn tượng về con người Nga với tình cảm và tâm hồn thi vị. Cũng có người do tiếp xúc với phim ảnh Nga (và Liên Xô cũ) trong thời bao cấp, đầu đổi mới mà cũng nảy sinh tình cảm với Nga. Cựu Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã trả lời phỏng vấn hai hãng tin lớn của Nga là TASS và Sputnik rằng: "Trong lòng người Việt, nước Nga luôn gắn liền với những tình cảm thân thiết, thủy chung. Đất nước, con người, thi ca, âm nhạc Nga đã lắng sâu trong tâm hồn nhiều thế hệ người Việt Nam, nhất là những người đã từng học tập và làm việc ở nước Nga. Sự gắn bó từ lịch sử là nền tảng hữu nghị truyền thống vững chắc, quan hệ chính trị với độ tin cậy cao ngày càng được tăng cường". Nam Tư Nước Nga nổi danh ở Serbia, và nhiều người Serb có truyền thống coi Nga là một đồng minh thân thiết do có chung di sản, chung văn hóa Slavơ và đức tin Chính thống giáo. Trong ký ức tập thể của người Serbia, người Nga là một dân tộc anh em vĩ đại và anh hùng đã gắn bó chặt chẽ với văn hóa-lịch sử và hai quốc gia thuộc chủng tộc Slav có mối quan hệ thân hữu lâu đời dù không phải láng giềng về mặt địa lý và dù Nam Tư cũ không thuộc Liên Xô. Nhiều người được tiếp xúc với văn hóa Nga, khám phá văn học kinh điển Nga các tiểu thuyết dài của những đại văn hào như Lev Tolstoy (Lép Tôn-xtôi), Dostoevsky (Đốt-xtôi-ép-xky), Turgenev (Tuốc-ghê-nhép), Nikolay Vasilyevich Gogol, thông qua thế giới nội tâm phong phú của các nhân vật trong văn chương Nga để dần chạm tiếp xúc với tâm hồn Nga. Những cảm nhận về Nga đến từ chính con người Nga, một dân tộc cá tính và giàu tình cảm, nhưng hơi khó hiểu và khó tả vì quá phức tạp và mâu thuẫn, với dòng máu Slav và từng trải qua một quá khứ đầy bi kịch, người Nga sở hữu một số nét rất đặc trưng mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu được đúng cách, nếu người đó không thạo tiếng Nga, một số người có cảm nhận rằng người Nga lạnh lùng và vô cảm, khó gần và không thân thiện với người lạ, họ hay uống rượu mạnh và dễ nóng giận nhưng họ tỏ ra rất chân thật, nhiệt tình và hào phóng, coi trọng tình bạn. Theo Hội đồng quan hệ đối ngoại châu Âu, có đến 54% người Serbia coi Nga là đồng minh, chỉ có 11% coi Liên minh Châu Âu là đồng minh và chỉ có 6% xem Hoa Kỳ theo cách tương tự. Trong cuộc xâm lược Ukraina của Nga năm 2022, một nhóm chính trị cực hữu, đã tổ chức các cuộc mít tinh ủng hộ Nga ở Belgrade, với sự tham dự của 4.000 người. Năm 2017, cư dân của làng Adžinci của Serbia đã đổi tên ngôi làng của họ thành mang tên Putinovo, để vinh danh Vladimir Putin. Ukraina Tại Ukraina tồn tại một số lượng lớn những người nói tiếng Nga và lực lượng thân Nga đã ủng hộ cho Nga trong cuộc chiến tranh với Ukraina. Điều này đã từng gây nên sự bất ổn tại Ukraina năm 2014 là sự kiện xung đột xảy ra ở miền đông nam Ukraina hồi tháng 2 năm 2014, tiếp diễn sau phong trào Euromaidan và vụ lật đổ chính phủ năm 2014. Xung đột quyền lợi giữa liên minh cánh hữu phía tây sau khi nắm quyền ở Kiev với miền đông nam, nơi có đông cư dân sắc tộc Nga sinh sống, dẫn đến sự đối đầu nhưng lại được coi là "ủng hộ thân Nga và kích động cổ xúy chủ nghĩa dân tộc" . Hoạt động ly khai đã diễn ra ở các thành phố lớn trên khắp các vùng phía đông và phía nam của Ukraina. Trong giai đoạn đầu tiên của tình trạng bất ổn, vùng Krym đã làm cuộc trưng cầu dân ý Krym 2014, tách khỏi Ukraina và sáp nhập vào Liên bang Nga, trong đó Nga đã ngầm can thiệp quân sự và thâu tóm cả Hạm đội Biển Đen. Tại tỉnh Donetsk và tỉnh Luhansk các cuộc biểu tình leo thang thành một cuộc nổi dậy ly khai vũ trang. Điều này đã khiến chính phủ Ukraina khởi động một cuộc phản công chống lại quân nổi dậy, mà kết quả chưa rõ ràng trong cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Donbass. Ngày 1 tháng 3 năm 2014, các tòa nhà hành chính nhà nước trong khu vực (RSA) trong nhiều tỉnh miền Đông Ukraina đã bị chiếm đóng trong một thời gian ngắn bởi những người hoạt động ủng hộ Nga. Ngày 11 tháng 3, tất cả các cuộc chiếm đóng đã kết thúc, sau khi các đơn vị của cảnh sát địa phương và Cơ quan An ninh Ukraine (SBU) tái chiếm các tòa nhà.. Một cuộc thăm dò được tiến hành bởi Viện Xã hội học quốc tế Kiev(KIIS) từ 8 đến 18 tháng 2 năm 2014 về ý kiến công cộng thống nhất với Nga trong Ukraine. Theo đó, 12% số người được hỏi ủng hộ sáp nhập vào Nga. 68,0% những người từ bốn khu vực được khảo sát đồng ý rằng Ukraine vẫn giữ độc lập, và duy trì quan hệ hữu nghị giữa Nga và Ukraina. Nước khác Belarus có quan hệ chính trị và kinh tế chặt chẽ với Nga, cả hai đều là một phần của Liên bang, Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể, Cộng đồng các quốc gia độc lập và Liên minh Kinh tế Á-Âu, do họ có chung di sản từ thời Liên Xô. Sau các cuộc biểu tình ở Belarus năm 2020–2021 và Nga xâm lược Ukraina 2022, nhiều nhà quan sát và truyền thông phương Tây đã mô tả Belarus như là một nhà nước bù nhìn hoặc một nhà nước vệ tinh của Nga. Người Indonesia vẫn ủng hộ Nga ở mức cao, do Moscow nhận thấy mối quan hệ với người Hồi giáo và thế giới Hồi giáo. Sự thù địch của công chúng đối Indonesia đối với phương Tây là kết quả của các cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ và các đồng minh tiến hành trong Chiến tranh ở Afghanistan (2001–2021) và Chiến tranh Iraq mà họ cho rằng phương Tây đã đối xử thờ ơ với người Palestine trong các vùng lãnh thổ bị Israel chiếm đóng. Một số người Indonesia đã so sánh tích cực sự ủng hộ dành cho tổng thống Nga Vladimir Putin trong Chiến tranh Nga-Ukraina với sự ủng hộ dành cho cựu tổng thống Suharto trong cuộc xâm lược Đông Timor của Indonesia. Những người thân Nga cũng được tìm thấy trong số nhóm chính trị cánh tả, những người ủng hộ Nga do sự gần gũi của tổng thống mới nhậm chức của Indonesia Sukarno với Liên Xô. Tình cảm thân Nga đặc biệt mạnh mẽ trong số các thành viên của Đảng Dân chủ Đấu tranh Indonesia cầm quyền, do con gái của Sukarno là Megawati Sukarnoputri lãnh đạo, người đã công khai chỉ trích Ukraina và tổng thống Volodymyr Zelenskyy. Thời Putin Nước Nga dưới thời của Vladimir Putin còn được nổi bật với hình ảnh công chúng của Vladimir Putin (được gọi hài hước là Đại đế Putin). Theo cuộc khảo sát năm 2017 của Mạng lưới Độc lập Toàn cầu / Hiệp hội Gallup Quốc tế (WIN/GIA), danh tiếng quốc tế của Putin đã tăng đáng kể từ năm 2015 đến 2017 (43 % tín nhiệm trong năm 2017 so với 33 % năm 2015). Chú thích Orest Subtelny. Ukraine. A history. University of Toronto Press. 1994. . Nga Ngưỡng mộ văn hóa nước ngoài Văn hóa Nga Quan hệ ngoại giao của Nga
19856496
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202006%20%E2%80%93%20Nam
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 – Nam
Giải đấu bóng đá nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 được tổ chức từ ngày 18 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 2006 tại Al-Wakrah, Al-Rayyan và Doha, Qatar. Đây là lần tổ chức thứ 14 của nội dung bóng đá nam tại Đại hội Thể thao châu Á. Giải đấu lần này có 28 đội tuyển tham dự. Độ tuổi tham dự giải là từ 23 tuổi trở xuống, và được quyền bổ sung tối đa 3 cầu thủ quá tuổi. Qatar đã giành được tấm huy chương vàng bóng đá nam lần đầu tiên tại Đại hội sau khi đánh bại Iraq với tỷ số 1–0 trong trận chung kết. Lịch thi đấu Lịch thi đấu chính thức cho giải đấu nam như sau. Bốc thăm Lễ bốc thăm cho nội dung bóng đá nam được tổ chức vào ngày 7 tháng 9 năm 2006 tại Doha, Qatar. Trong số 30 đội tuyển tham dự ban đầu, tám đội không tham dự giải đấu lần trước (gồm Indonesia, Iraq, Jordan, Kyrgyzstan, Macau, Singapore, Syria, Tajikistan) phải tham dự vòng thứ nhất, các đội còn lại được quyền tham dự từ vòng thứ hai. Hai đội đứng đầu của hai bảng đấu tiến vào vòng 2 và được xếp vào bảng đấu tương ứng. Ghi chú: (H): Chủ nhà; (W): Rút lui. Vào ngày 21 tháng 11 năm 2006, Turkmenistan thông báo rút lui khỏi giải đấu nam do vấn đề về tài chính. Không lâu sau đó vào ngày 23 tháng 11, đến lượt Yemen cũng tuyên bố rút kui khỏi giải do đội bóng này không thể đáp ứng chi phí xét nghiệm doping sau khi phát hiện một vài cầu thủ của đội dương tính với chất cấm. Do đó, Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) đã sửa đổi điều luật để các đội nhì bảng của vòng loại cũng được đi tiếp vào vòng trong. Một cuộc bốc thăm bổ sung đã được ban tổ chức giải đấu tiến hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2006 tại sân vận động Al-Gharrafa, trong đó Kyrgyzstan được xếp vào bảng C thay cho Yemen, và Syria được xếp vào bảng F thay cho Turkmenistan. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2006, Iran đã bị FIFA cấm tham dự các giải đấu bóng đá quốc tế, trong đó có Đại hội Thể thao châu Á 2006, do để chính quyền nước này can thiệp vào các hoạt động bóng đá. Tuy nhiên sau đó, FIFA đã quyết định gỡ bỏ lệnh cấm tạm thời đối với Iran để họ có thể tiếp tục góp mặt tại giải đấu. Đội hình Mỗi đội tuyển tham dự giải đấu phải nộp một bản danh sách gồm 20 cầu thủ chính thức, trong đó có tối thiểu 2 thủ môn và 3 cầu thủ có thể là cầu thủ quá tuổi U-23. Vòng bảng Tất cả thời gian được liệt kê đều là Giờ chuẩn Ả Rập (UTC+03:00). Vòng 1 Bảng A Bảng B Vòng 2 Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Xếp hạng các đội nhì bảng đấu Hai đội nhì bảng có thành tích tốt nhất lọt vào vòng tứ kết. Vòng đấu loại trực tiếp Sơ đồ Tứ kết Bán kết Tranh huy chương đồng Tranh huy chương vàng Huy chương vàng Cầu thủ ghi bàn Bảng xếp hạng chung cuộc Xem thêm Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 – Nữ Tham khảo Liên kết ngoài Lịch thi đấu chính thức bóng đá nam Lịch thi đấu chính thức bóng đá nữ RSSSF Articles with permanently dead external links
19856498
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20b%C6%A1i%20v%C3%B4%20c%E1%BB%B1c
Hồ bơi vô cực
Hồ bơi vô cực hay Bể bơi vô cực (Infinity pool) còn được gọi là Bể tràn cạnh (Infinity edge pool) hay Bể không cạnh (Zero edge pool), Bể tràn (Overflow pool) hoặc Hồ bơi tràn (Spillover pool) là hồ bơi được thiết kế tạo cảm giác hình ảnh hồ nước dường như kéo dài tới tận vô cực. Mẫu hồ bơi này được xây dựng mô phỏng theo hình ảnh dòng nước kéo dài bất tận, nơi dòng nước chảy qua một hoặc nhiều cạnh, tạo ra hiệu ứng hình ảnh về nước không có ranh giới. Đặc điểm chung là thiết kế tràn bờ, giúp ranh giới giữa thiên nhiên và nhân tạo bị xóa nhòa. Đa phần các bể bơi bơi vô cực thường được thiết kế trên cao, có khung cảnh hướng ra biển, sông, núi để đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.. Chúng thường được thiết kế sao cho rìa dường như hòa vào một vùng nước lớn hơn như đại dương hoặc với bầu trời và có thể nhìn ra các vị trí như cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan thành phố, hồ bơi vô cực thấy ở các khách sạn, khu nghỉ dưỡng, khu bất động sản cao cấp và những nơi sang trọng khác. Ý tưởng hồ bơi vô cực được cho là bắt nguồn từ Bali (Indonesia), nơi có những cánh đồng lúa ngút tầm mắt trải dài tới tận đường chân trời, được người địa phương gọi là Sawah. Hồ bơi vô cực cũng là một xu hướng mới đại diện cho sự hiện đại, xa hoa hiện nay. Nó cũng được xem là một trong những phát hiện đặc sắc nhất, mang tính đột phá về mặt thiết kế đồng thời mang vẻ đẹp tinh tế, thẩm mỹ cao phá vỡ mọi giới hạn về tầm nhìn và không gian. Hồ bơi vô cực đã làm nên tên tuổi cho nhiều công trình kiến trúc, tiêu biểu có thể kể tới khách sạn hạng sang Marina Bay Sands (Singapore) với hồ bơi vô cực trên tầng mái lớn nhất thế giới, hồ bơi thiên đường Paradise Pool (Maldives) chạy dài ra sát biển, hồ bơi khách sạn Mahal (Thổ Nhĩ Kỳ) như tấm gương trong soi bóng bầu trời hay những kỳ quan mặt nước có thể tìm thấy tại khu nghỉ dưỡng vườn treo Ubud Hanging Gardens (Bali, Indonesia) hay Holiday Inn Shanghai (Thượng Hải, Trung Quốc). Ở Việt Nam cũng có những hồ bơi tràn vô cực Lasenta Boutique, Rock Water Bay, Sol Bunglow, bể bơi vô cực Tam Đảo, ở Đà Nẵng, Vũng Tàu. Chú thích Tham khảo Kiến trúc Hồ bơi Du lịch
19856503
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20L%C3%A3nh%20s%E1%BB%B1%20qu%C3%A1n%20Canada%20t%E1%BA%A1i%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh
Tổng Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh () tọa lạc trên Tầng 10 Tòa nhà Metropolitan, số 235 đường Đồng Khởi, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp dịch vụ lãnh sự và quản lý các công việc ngoại giao của Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh và miền Nam Việt Nam. Điều này bao gồm việc quảng bá Canada như một điểm đến về thương mại và giáo dục, tạo thuận lợi cho đầu tư và thương mại của Canada, liên lạc với Chính phủ Việt Nam về các vấn đề liên quan và tạo điều kiện cho các chuyến thăm cấp cao của Canada tới Việt Nam, như chuyến thăm của cựu Bộ trưởng phụ trách vấn đề Cửa ngõ châu Á-Thái Bình Dương Stockwell Day, Thủ hiến Nova Scotia Darrell Dexter, Bộ trưởng Bộ Thương mại Quốc tế Ed Fast, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao John Baird, và Toàn quyền Canada David Johnston. Tổng Lãnh sự Canada hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh là Annie Dubé. Tổng Lãnh sự quán Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị tổ chức cuộc chạy Terry Fox Run thường niên của Thành phố Hồ Chí Minh. Trưởng phái bộ ngoại giao Tổng Lãnh sự Annie Dubé (8/2023 – nay) Tổng Lãnh sự Behzad Babakhani (11/2020 – 8/2023) Tổng Lãnh sự Kyle Nunas (8/2017 – 8/2020) Tổng Lãnh sự Richard Bale (8/2015 – 8/2017) Tổng Lãnh sự Wayne Robson (9/2013 – 8/2015) Tổng Lãnh sự Audri Mukhopadhyay (8/2009 – 8/2013) Tổng Lãnh sự Bill Johnston (8/2006 – 6/2009) Tổng Lãnh sự Sanjeev Chowdhury (9/2003 – 8/2006) Tổng Lãnh sự Judith St. George (9/2000 – 9/2003) Tổng Lãnh sự Sara Hradecky (9/1997 – 9/2000) Tổng Lãnh sự Ian Burney (9/1995 – 8/1997) Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức (Tiếng Anh và Tiếng Việt) Quan hệ Canada – Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao của Canada Cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh
19856504
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20L%C3%A3nh%20s%E1%BB%B1%20qu%C3%A1n%20Hoa%20K%E1%BB%B3%20t%E1%BA%A1i%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh
Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh () đại diện cho lợi ích của chính phủ Mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh (trước đây gọi là Sài Gòn), Việt Nam. Lãnh sự quán báo cáo với đại sứ ở Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trước khi Việt Nam thống nhất năm 1975, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ chính là Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa. Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh là Susan Burns. Tổng Lãnh sự quán được Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright khánh thành trong một buổi lễ vào ngày 8 tháng 9 năm 1999. Tham khảo Liên kết ngoài (Tiếng Anh và Tiếng Việt) Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao của Hoa Kỳ Cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh
19856505
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20L%C3%A3nh%20s%E1%BB%B1%20qu%C3%A1n%20Ph%C3%A1p%20t%E1%BA%A1i%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh
Tổng Lãnh sự quán Pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng Lãnh sự quán Pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh ( hoặc là cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp tại Việt Nam. Tọa lạc tại Thành phố Hồ Chí Minh (tiền thân là Sài Gòn), trước đây từng là nơi ở chính thức của các nhà lãnh đạo thực dân Pháp thời thuộc địa (1872–1945), nhà của Cao ủy Pháp (1945–1954) và Đại sứ quán tại Việt Nam Cộng hòa (1954–1965, 1973–1975). Lãnh sự quán này chính thức mở cửa vào năm 2003. Tòa nhà gây sự chú ý nhờ kiến trúc và hiện vật lịch sử. Lịch sử và kiến trúc Tòa nhà lãnh sự quán hiện tại ban đầu được toán kỹ sư của Hải quân Pháp xây dựng vào năm 1872 ở trung tâm lịch sử của thành phố và sau đó được công nhận là một trong những tòa nhà chính của thời kỳ thuộc địa. Ban đầu nó đóng vai trò là nơi ở chính thức của Thống đốc Nam Kỳ và sau đó là nhiều nhà lãnh đạo quân sự cấp cao trong cùng khu vực, dẫn đến việc tòa nhà có biệt danh thay thế là . Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Cao ủy Pháp đã cư trú tại đây từ năm 1945 đến năm 1954. Sau khi Việt Nam bị chia cắt sau Hội nghị Genève năm 1954, khu đất này trở thành Đại sứ quán tại Việt Nam Cộng hòa. Mối quan hệ giữa hai nước trở nên rạn nứt do việc Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các cáo buộc khác ủng hộ lực lượng cộng sản như một phần của chính sách hòa giải, dẫn đến một loạt cuộc biểu tình của sinh viên tại đại sứ quán trong suốt mùa thu năm 1963. Khi mối quan hệ trở nên tồi tệ, một cuộc biểu tình khác xảy ra vào tháng 7 năm 1964 và có sự tham gia của 200 sinh viên biểu tình kéo tới đập phá đồ đạc và trang thiết bị. Sau cùng, vào năm 1965, Nguyễn Cao Kỳ đã đình chỉ quan hệ và trục xuất đại sứ quán, mặc dù mối quan hệ vẫn được duy trì ở cấp lãnh sự quán. Mối quan hệ giữa hai bên chỉ được khôi phục vào năm 1973, và một đại sứ mới được công nhận và đến cư trú tại Sài Gòn. Sau khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại sứ quán Pháp có vẻ như là cơ quan đại diện duy nhất ở Sài Gòn được phép tiếp tục hoạt động bán bình thường, thậm chí còn tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Bastille; nhưng đã phải đóng cửa vào cuối năm đó. Cuối cùng, cơ sở này đã được nước Pháp khôi phục vào năm 2000 (lần cải tạo thứ hai sau lần đầu tiên vào năm 1959) và lãnh sự quán được mở vào năm 2003. Là một phần của chương trình Ngày Di sản châu Âu, lãnh sự quán hàng năm tổ chức các chuyến tham quan cho công chúng; trong một bài báo năm 2019, Tuổi Trẻ đã lưu ý đến vị trí quan trọng của lãnh sự quán như một ví dụ về kiến trúc thuộc địa Pháp, "đồ cổ và tranh vẽ quý hiếm" của Việt Nam thế kỷ 19-20 được quản lý bên trong, và ý nghĩa thực vật của khuôn viên lãnh sự quán, vốn là công viên tư nhân lớn nhất thành phố. Tham khảo Liên kết ngoài (Tiếng Pháp và Tiếng Việt) Quan hệ Pháp – Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp Cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh
19856506
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m%20thoa
Âm thoa
Âm thoa (Tuning fork/Diapason) là một âm thanh cộng hưởng được hình thành từ một thanh âm thoa hình chữ U bằng kim loại đàn hồi (thường là thép). Nó cộng hưởng ở một hằng số cao độ nhất định khi được thiết lập nhịp rung bằng cách đập/gõ nó vào một bề mặt hoặc với một vật thể và phát ra một giai điệu âm nhạc thuần khiết khi âm bội cao mờ dần. Cao độ của âm thoa phụ thuộc vào chiều dài và khối lượng của hai ngạnh. Chúng là nguồn cao độ tiêu chuẩn truyền thống cho các nhạc cụ điều chỉnh. Âm thoa được nhạc sĩ người Anh John Shore phát minh vào năm 1711. Đại cương Âm thoa là một bộ cộng hưởng âm thanh có hình nĩa được sử dụng trong nhiều ứng dụng để tạo ra một âm cố định. Lý do chính cho việc sử dụng hình dạng nĩa là vì, không giống như nhiều loại bộ cộng hưởng khác, nó tạo ra âm thanh thuần khiết, với hầu hết năng lượng rung động ở tần số cơ bản. Lý do cho điều này là tần số của âm bội đầu tiên là khoảng = = lần giá trị cơ bản (khoảng quãng tám phía trên nó). Để so sánh, âm bội đầu tiên của dây rung hoặc thanh kim loại cao hơn một quãng tám (hai lần) âm cơ bản, vì vậy khi dây được gảy lên hoặc thanh bị đánh, dao động của nó có xu hướng trộn lẫn tần số âm cơ bản và âm bội. Khi âm thoa được đánh vào, rất ít năng lượng sẽ chuyển sang các chế độ âm bội; chúng cũng tắt đi nhanh hơn tương ứng, để lại sóng hình sin thuần túy ở tần số cơ bản. Việc điều chỉnh các nhạc cụ khác với âm thanh thuần khiết này sẽ dễ dàng hơn. Một lý do khác để sử dụng hình dạng nĩa là vì nó có thể được giữ ở chân đế mà không cần giảm chấn dao động. Đó là bởi vì chế độ rung động chính của nó là đối xứng, với hai ngạnh luôn chuyển động ngược chiều với nhau, do đó tại đáy nơi hai ngạnh gặp nhau có một nút (điểm không có chuyển động dao động) do đó có thể được xử lý mà không loại bỏ năng lượng khỏi dao động (giảm chấn). Tuy nhiên, vẫn có một chuyển động nhỏ được tạo ra trong tay cầm theo hướng dọc của nó (do đó vuông góc với sự dao động của các ngạnh) có thể được tạo ra bằng âm thanh bằng cách sử dụng bất kỳ loại bảng âm thanh nào. Do đó, bằng cách ấn đế âm thoa vào bảng âm thanh chẳng hạn như hộp gỗ, mặt bàn hoặc cầu của một nhạc cụ, chuyển động nhỏ này nhưng ở mức áp suất âm thanh cao (trở kháng âm thanh rất cao), được chuyển đổi một phần thành âm thanh nghe được trong không khí, bao gồm chuyển động lớn hơn nhiều (vận tốc hạt) ở áp suất tương đối thấp (do đó trở kháng âm thanh thấp). Cao độ của âm thoa cũng có thể được nghe trực tiếp thông qua dẫn truyền xương, bằng cách ấn âm thoa vào xương ngay sau tai hoặc thậm chí bằng cách giữ thân nĩa trong răng, thuận tiện để rảnh cả hai tay.​ Chú thích Liên kết ngoài Onlinetuningfork.com, an online tuning fork using Macromedia Flash Player. Âm thanh Vật dụng Chữa lành Trị liệu Giới thiệu năm 1711 Âm học
19856511
https://vi.wikipedia.org/wiki/Piero%20Zuffi
Piero Zuffi
Piero Zuffi (28 tháng 4 năm 1919 – 2006) là nhà thiết kế bối cảnh và họa sĩ người Ý. Ông sinh ra tại Imola, tỉnh Bologna của Ý. Ông bắt đầu công việc họa sĩ tại Mỹ Latinh. Sau một vài năm định cư ở Paris, năm 1952, ông chuyển đến Milano, bắt đầu công việc thiết kế bối cảnh, và cộng tác với Piccolo Teatro. Năm 1954, ông đảm nhiệm việc thực hiện bối cảnh và trang phục cho một buổi công diễn vở opera Alceste của Christoph Willibald Gluck, có sự tham gia của Maria Callas. Ngoài ra ông còn tham gia vào lĩnh vực điện ảnh. Ông đã viết kịch bản và đạo diễn bộ phim tội phạm The Syndicate: A Death in the Family vào năm 1970. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1919 Mất năm 2006 Nhà thiết kế bối cảnh Họa sĩ Ý thế kỷ 20 Nam nghệ sĩ Ý thế kỷ 20 Nam họa sĩ Ý Họa sĩ Ý thế kỷ 21 Nam nghệ sĩ Ý thế kỷ 21 Người Imola Tự sát năm 2006 Người Ý ở Pháp Tự tử ở Ý
19856518
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A0%20An%20B%C3%ACnh
Phà An Bình
Phà An Bình là một tuyến phà ngang qua sông Cổ Chiên, nối liền phường 1, thành phố Vĩnh Long với bốn xã Cù lao An Bình thuộc huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. Phà đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển người dân, phương tiện qua lại giữa hai bờ sông, góp phần thúc đẩy giao thương, kinh tế và du lịch địa phương. Vấn đề an toàn Phà An Bình, nằm ở thành phố Vĩnh Long, Việt Nam, là một điểm quan trọng kết nối thành phố này với bốn xã Cù lao An Bình thuộc huyện Long Hồ. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa và du khách, Phà An Bình đang đối mặt với một số thách thức về an toàn. Trật tự an toàn Khi phà vừa cập bến, người dùng xe máy thường chen chúc, lao xuống phà mà không chờ đến khi phương tiện dưới phà đã lên hết. Họ thậm chí khởi động động cơ và đi xuống đoạn đường dốc trước khi phà dừng di chuyển. Điều này tạo ra nguy cơ mất an toàn cho người và phương tiện khi qua lại trên phà. Xe ô tô Mặc dù có biển báo cấm ô tô, nhưng xe ô tô vẫn lên xuống phà. Các cơ quan chức năng đã nhắc nhở chủ phương tiện không chở ô tô vượt sông, nhưng việc này vẫn diễn ra. Sạt lở Khu vực hoạt động của phà An Bình có nguy cơ sạt lở cao. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của phà mà còn đe dọa an toàn của người dân và du khách. Bến bãi Bến bãi tại Phà An Bình không đủ tiêu chuẩn, nhỏ hẹp và xuống cấp. Điều này gây khó khăn cho việc lên xuống phà, đặc biệt là trong trường hợp của xe ô tô. Hình ảnh Tham khảo Xem thêm Phà Đình Khao Vĩnh Long Long Hồ Vĩnh Long
19856523
https://vi.wikipedia.org/wiki/Void%20coefficient
Void coefficient
Trong kỹ thuật hạt nhân, Void coefficient (tạm dịch:Hệ số rỗng) là một con số có thể được sử dụng để ước tính mức độ phản ứng của lò phản ứng hạt nhân thay đổi như thế nào khi các khoảng trống (thường là bong bóng hơi) hình thành trong bộ điều tiết hoặc chất làm mát của lò phản ứng. Khả năng phản ứng thực trong lò phản ứng là tổng của nhiều thành phần đóng góp, trong đó Void coefficient chỉ là 1. Các lò phản ứng trong đó chất điều tiết hoặc chất làm mát là chất lỏng thường sẽ có giá trị Void coefficient là âm (nếu lò phản ứng được điều tiết dưới mức) hoặc dương (nếu lò phản ứng được điều tiết quá mức). Các lò phản ứng trong đó cả chất điều tiết và chất làm mát đều không phải là chất lỏng (ví dụ: lò phản ứng làm mát bằng khí, được điều tiết bằng than chì) sẽ có giá trị Void coefficient bằng 0. Không rõ định nghĩa về hệ số "khoảng trống" áp dụng như thế nào cho các lò phản ứng trong đó chất điều tiết/chất làm mát không phải là chất lỏng hay chất khí (lò phản ứng nước siêu tới hạn). Giá trị âm của hệ số phản ứng của không gian hơi là một trong những đặc điểm cho thấy sự an toàn thụ động của kết cấu lò phản ứng hạt nhân trong quá trình tăng nhiệt độ hoặc giảm áp suất, theo nguyên tắc an toàn sự cố . Chú thích Liên kết ngoài Vật lý hạt nhân Phản xạ neutron Vùng hoạt MKER Tài liệu tham khảo Chernobyl - A Canadian Perspective - A brochure describing nuclear reactors in general and the RBMK design in particular, focusing on the safety differences between them and CANDU reactors. Published by Atomic Energy of Canada Ltd. (AECL), designer of the CANDU reactor. J.J. Whitlock, Why do CANDU reactors have a "positive void coefficient"? - An explanation published on The Canadian Nuclear FAQ, a website of "frequently-asked questions" and answers about Canadian nuclear technology. J.J. Whitlock, How do CANDU reactors meet high safety standards, despite having a "positive void coefficient"? - An explanation published on The Canadian Nuclear FAQ, a website of "frequently-asked questions" and answers about Canadian nuclear technology.
19856525
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20h%E1%BB%99i%20C%E1%BB%A9u%20r%E1%BB%97i%20Tin%20l%C3%A0nh%20H%C3%A0n%20Qu%E1%BB%91c
Giáo hội Cứu rỗi Tin lành Hàn Quốc
Giáo hội Cứu rỗi Tin lành Hàn Quốc (Evangelical Baptist Church of Korea hay Korean Evangelical Baptist Church, tiếng Hàn: 기독교복음침례회) được thành lập vào năm 1962 do vị tỷ phú người Hàn Quốc là Yoo Byung-eun và Mục sư Kwon Shin-chan (권신찬) khai lập nên. Tên chính thức của Giáo hội này được đổi thành EBC vào năm 1981. Ở Hàn Quốc, EBC thường được gọi là Guwonpa (Cứu ân phái), nghĩa là Giáo phái Cứu rỗi (Salvation Sect) trong cụm từ Guwon (Cứu ân/구원). Giáo hội Cứu rỗi được thành lập với niềm tin rằng người được Chúa Trời cứu giúp hay che chở sẽ thoát khỏi những tội lỗi trong tương lai và đảm bảo con đường lên thiên đàng. Giáo phái Cứu rỗi này có khoảng 100.000 thành viên, răn dạy tín đồ rằng những người đã được Chúa cứu rỗi sẽ được tha thứ tất cả tội lỗi họ phạm phải trong tương lai và chắc chắn sẽ lên thiên đàng. Không giống như các tổ chức Cơ Đốc giáo khác, nhóm này không khuyên tín đồ về sự ăn năn hối lỗi khi làm điều sai và đây là một trong những lý do khiến nhóm bị các giáo hội chính thống coi là dị giáo. Các thành viên giáo phái dùng khu nhà Geumsuwon có diện tích 760.000 m2 làm nơi trồng rau củ hữu cơ và nuôi cá. Bê bối Cảnh sát cũng nhiều lần vào cuộc điều tra hoạt động của giáo hội với những khoản tiền quyên góp lên đến hàng tỷ won và được chuyển vào quỹ đầu tư của những doanh nghiệp công ty con do ông Lee Byung Un điều hành. Năm 1987, vụ tự sát hàng loạt ở Odaeyang của 32 tín đồ giáo hội Cứu rỗi được cho là có liên quan đến hiệp ước giết người và tự tử của giáo hội nhưng giáo chủ tỷ phú Lee Byung Un phủ nhận. Đến năm 1992, ông Lee Byung Un bị bắt vì tội lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để gian lận trong kinh doanh và lãnh án 4 năm tù giam. Ông chủ JYP Entertainment là Park Jin Young và tài tử Bae Yong Joon bị Dispatch bắt gặp loạt ảnh tham gia buổi truyền đạo kéo dài 7 ngày của giáo phái này ở Yeoksamdong. Sau khi tin tức lan truyền, cả hai đồng loạt lên tiếng phủ nhận thông tin trên. Từng có tin đồn cho rằng ông Lee Byung Un sử dụng JYP Entertainment như một kênh chuyển tiền của giáo phái sau những cáo buộc trốn thuế. Một yếu tố khác khiến tin đồn càng thêm đáng tin là vợ của Park Jin Young chính là cháu gái của Lee Byung Un. Năm 2014, Park Jin Young cũng bị cuốn vào vòng xoáy chỉ trích vì bị cho là tín đồ của giáo hội Cứu rỗi nhưng ông chủ JYP đã lên tiếng phủ nhận sau đó. Năm 2014, giáo hội Cứu rỗi bị cả đất nước Hàn Quốc lên án vì có liên quan đến vụ chìm phà Sewol khi ông Lee Byung Un là người đứng đầu công ty sở hữu phà Sewol. Giới chức Hàn Quốc phát lệnh bắt doanh nhân Yoo Byung-eun với cáo buộc tham ô, lơ là trách nhiệm và trốn thuế. Sau vụ chìm phà Sewol, Yoo trở thành người bị truy nã gắt gao nhất Hàn Quốc nhưng giới chức không thể lần ra tung tích ông này. Hàng nghìn cảnh sát và công tố viên vài lần đột kích vào Geumsuwon nhưng không tìm thấy ông và vấp phải sự kháng cự của tín đồ. Ngày 28 tháng 4 năm 2014 đã có 600 tín đồ biểu tình trước trụ sở đài KBS ở Seoul để phản đối việc đưa tin về mối liên quan giữa giáo phái với bên điều hành phà Sewol. Các công tố viên cảnh báo vào ngày 24 tháng 5 năm 2014 rằng bất cứ ai giúp Yoo ẩn náu đều phải đối mặt với án tù ba năm. Đứng trước áp lực dư luận với hàng loạt những cáo buộc, ông qua đời vào tháng 6 năm 2014, đúng 2 tháng sau khi thảm họa chìm phà xảy ra. Ngày 12 tháng 6 năm 2014, một thi thể bị phân hủy nặng được tìm thấy ở một vườn mận tại Suncheon, cạnh thi thể là ba chai rượu soju, một chai dầu gan cá mập do một trong những công ty của Yoo sản xuất cùng một cuốn sách của ông này, khoảng 6 tuần sau, cảnh sát xác nhận thi thể này là Yoo nhưng không kết luận ông bị sát hại hay tự tử. Tham khảo Cuồng giáo Phong trào Kitô giáo mới Kitô giáo tại Hàn Quốc
19856538
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82n%20%C4%91i%E1%BB%83n%20c%E1%BB%A9u%20r%E1%BB%97i
Ân điển cứu rỗi
Ân điển cứu rỗi hay còn có tên gọi khác là Ân điển đời đời hoặc Sự cứu rỗi đời đời hay Siêu Ân điển hay Hội truyền giáo Tin lành (Good News Mission, tiếng Hàn: 기쁜소식선교회/Gi-ppeun-so-sik-sseon-gyo-hoe) là một phong trào tôn giáo mới theo hệ phái Cơ Đốc giáo có trụ sở tại Hàn Quốc được thành lập vào năm 1971 do mục sư Ock Soo Park. Đây là một trong một số phong trào tôn giáo mới ở Hàn Quốc được gọi là Guwonpa (Giáo phái cứu rỗi).. Trước đây giáo phái này theo hệ phái Tin lành Trưởng lão. Giáo lý Tổ chức Ân điển cứu rỗi được coi là một dạng hệ phái đạo Tin Lành, nhưng giáo lý có nhiều sai lệch so với kinh Thánh. Giáo lý của tổ chức dựa trên 66 cuốn kinh thánh (29 cuốn Tân ước và 37 cuốn Cựu ước, giống với các tổ chức Tin lành khác) nhưng với cách hiểu và giải thích sai lệch nội dung kinh thánh như những người tin theo Ân điển cứu rỗi cho rằng: "Chúa Jêsu đã bị đóng đinh lên cây thập tự giá để chịu tội thay loài người, do đó khi loài người có những việc làm sai trái đã có chúa chịu tội, đồng thời tôn sùng ông Park Ock Soo là hiện thân của chúa Jêsu", tín đồ theo Ân điển cứu rỗi mặc nhiên “được chúa cứu rỗi, không còn tội khi vi phạm”, cổ súy lối sống phóng khoáng, tự do, vi phạm pháp luật, “sống trong tội lỗi mà không cần phải ăn năn và cảm thấy day dứt, hối hận” nên thu hút được hàng triệu tín đồ, nhất là tầng lớp thanh niên hư hỏng tham gia là mối nguy hại cho xã hội. Do đó, các tổ chức Tin lành chính thống tại Hàn Quốc và các nước coi Ân điển cứu rỗi là tà giáo. Hệ phái này tổ chức sinh hoạt hằng tuần, hằng tháng, khác với đạo Tin lành thuần túy, trong đó tuyên truyền về quan niệm cho rằng Chúa Jesu trên cây thánh giá đã chuộc tội cho loài người. Khi mà cầu nguyện, con người không còn tội lỗi gì nữa, tức là không cần xưng tội với Chúa và cổ suý cho lối sống phóng khoáng và sống trong tội lỗi, nhưng không có ăn năn, hối cải, không cảm thấy day dứt hối hận, dễ dàng vượt quá giới hạn về luân thường đạo lý. Điều này đi ngược lại với các hệ phái chính thống Tin lành đã được công nhận về mặt tổ chức và cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Tại Việt Nam Giáo phái này du nhập vào Việt Nam từ năm 2007. Đây là tổ chức có giáo lý cực đoan, cổ súy cho những hành vi vi phạm pháp luật, không được Nhà nước Việt Nam công nhận và không được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Những người tin theo tổ chức bất hợp pháp này chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp. Lợi dụng nhận thức pháp luật còn hạn chế, các phần tử xấu thường xuyên đến vùng đồng bào dân tộc Mông cư trú để tuyên truyền, lôi kéo bà con theo tổ chức tà giáo Ân điển cứu rỗi, lôi kéo bà con nhân dân tham gia với những luận điệu tuyên truyền cực đoan, cổ vũ cho lối sống phóng túng, buông thả, dễ dàng vượt qua giới hạn về luân thường, đạo lý, không sợ bị pháp luật trừng phạt. Một số người Mông đã tin theo, làm cho tình hình an ninh nông thôn có nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh, trật tự. Những người tin theo hoạt động của tổ chức này thuộc nhiều lứa tuổi, trình độ khác nhau, nhưng chủ yếu là thanh thiếu niên, phụ nữ, người già. Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, tổ chức Ân điển cứu rỗi đã xuất hiện từ năm 2011 tại xã Đình Phùng, huyện Bảo Lạc, do đối tượng Hoàng Tràn Pyao làm trưởng nhóm, lấy tên gọi là nhóm Cốc Thốc. Trước đó, đối tượng này làm trưởng điểm nhóm Tin lành Việt Nam miền Bắc ở xóm Cốc Thốc, xã Đình Phùng, sau đó xuống Hà Nội học giáo lý Tin lành, đã bị đối tượng xấu lôi kéo tham gia tổ chức Ân điển cứu rỗi. Dưới sự điều hành, chỉ đạo của Pyao, trong 10 năm hoạt động, nhóm này đã đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển đạo, lôi kéo được 24 hộ gia đình, 114 chức sắc, tín đồ các hệ phái Tin lành hợp pháp để mượn danh pháp nhân hoạt động, trong đó có 5 hộ, 28 tín đồ đến từ xóm Lũng Súng, xã Yên Lạc, huyện Nguyên Bình tham gia sinh hoạt chung vào tối thứ tư và chủ nhật hằng tuần. Địa điểm sinh hoạt là tại ngay chính tại nhà của Emmanuel Hoàng Tràn Pyao. Đến năm 2015, tổ chức “Ân điển cứu rỗi” đã phát triển sang xã Hưng Đạo, huyện Bảo Lạc, do đối tượng Hà Văn Nhỏi lấy tên gọi là “Bình an”. Tại tỉnh Yên Bái, những đối tượng tin theo Ân điển cứu rỗi đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển tổ chức, lôi kéo tín đồ thuộc các hệ phái Tin lành chính thống, các đối tượng cầm đầu, cốt cán tại Hà Nội tích cực thông qua hoạt động từ thiện, đào tạo nghề, tổ chức tham quan, du lịch, hội nghị, hội thảo ở nước ngoài để lôi kéo sinh viên, thanh niên tin theo Ân điển cứu rỗi, gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và tiềm ẩn phức tạp về an ninh trật tự. Theo thống kê thì tỉnh Yên Bái đã có trên 90 hộ với 536 khẩu người dân tộc Mông tại các huyện Mù Cang Chải, Văn Chấn, Trạm Tấu, Trấn Yên, Văn Yên bị tác động sinh hoạt theo giáo lý của tổ chức Ân điển cứu rỗi. Sùng A Thờ (ở thôn Quyết Tiến, xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên) cho biết, do nhận thức kém, bị các đối tượng dụ dỗ, lôi kéo, tham gia tổ chức tôn giáo Ân điển cứu rỗi. Khi được chính quyền và lực lượng công an tuyên truyền, anh đã từ bỏ tham gia tổ chức bất hợp pháp này. Ngoài ra, Công an cũng đã lật tẩy những luận điệu sai trái, thức tỉnh người dân tại xã Phú Đô, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên khỏi những ảo vọng vô căn cứ trở về cuộc sống bình yên vốn có. Chú thích Cuồng giáo Phong trào Kitô giáo mới Kitô giáo tại Hàn Quốc
19856542
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mart%20V%C3%B5rklaev
Mart Võrklaev
Mart Võrklaev (sinh ngày 30 tháng 5 năm 1984) là chính khách người Estonia. Trước đây, ông từng giữ chức vụ làm thị trưởng Rae từ năm 2012 đến năm 2019. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm Bộ trưởng Tài chính Estonia kể từ ngày 17 tháng 4 năm 2023. Tham khảo Sinh năm 1984 Chính khách Đảng Cải cách Estonia Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Khoa học Đời sống Estonia Cựu sinh viên đại học Tartu Thị trưởng Estonia Bộ trưởng Tài chính Estonia Thành viên Nghị viện Estonia
19856550
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20nguy%E1%BB%87n%20Sistina%20c%E1%BB%A7a%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1
Nhà nguyện Sistina của bóng đá
Nhà nguyện Sistina của bóng đá (; còn được gọi là "Sự tạo dựng bóng đá", ) là một tác phẩm nghệ thuật được trưng bày tại câu lạc bộ Sportivo Pereyra đến từ Barracas, Buenos Aires, Argentina. Bức tranh tôn vinh hai cầu thủ bóng đá Argentina vĩ đại nhất, Lionel Messi và Diego Maradona, cũng như những cầu thủ đáng chú ý khác của nước này bao gồm Juan Román Riquelme, Gabriel Batistuta, Mario Kempes, Sergio Agüero, Claudio Caniggia, Ricardo Bochini và Ariel Ortega. Lấy cảm hứng từ bức bích họa cổ điển của Michelangelo, Sự tạo dựng Adam trong Nhà nguyện Sistina ở Roma, bức tranh được vẽ nên vào năm 2014 bởi nhà thiết kế đồ họa và nghệ sĩ người Argentina Santiago Barbeito (còn gọi là Santuke). Tác phẩm nghệ thuật này đã trở nên phổ biến vào giữa năm 2018, khi một đoạn video do một người nghiệp dư quay được lan truyền trên mạng xã hội. Lịch sử Vào năm 2014, ban lãnh đạo câu lạc bộ đã quyết định sơn trần sân chính trong nhà. Ý tưởng ban đầu là vẽ lại bầu trời đầy mây nhưng sau đó, một đề xuất mới xuất hiện bao gồm Messi, Maradona và những đại diện lịch sử khác của bóng đá Argentina. Ricardo Elsegood, huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ nói với truyền thông địa phương: "Đối với chúng tôi, đây là ngôi đền thiêng liêng của bóng đá và còn cách nào tốt hơn để thể hiện nó bằng một trần nhà phù hợp, giống như Nhà nguyện Sistina". Đặc điểm Trong bức bích họa tái hiện tác phẩm của Michelangelo, Lionel Messi đại diện cho Adam và Diego Maradona đóng vai Chúa, trong khi các thiên thần hoàn thiện cảnh này là Juan Román Riquelme, Gabriel Batistuta, Mario Kempes, Sergio Agüero, Claudio Caniggia, Ricardo Bochini và Ariel Ortega. Santiago Barbeito, tác giả của tác phẩm nghệ thuật giải thích: "Nó giống như Maradona ban cho Messi di sản bóng đá đẹp". Tác phẩm nghệ thuật này là một bức ảnh ghép kỹ thuật số được in trên tám bức vẽ trải dài có diện tích khoảng 500 mét vuông. Được tạo ra nhờ quá trình quyên góp, chi phí của nó trị giá khoảng 20.000 USD. Câu lạc bộ Câu lạc bộ Sportivo Pereyra tọa lạc tại số 2785 phố Alvarado ở Barracas, một khu phố của Buenos Aires, cách vài dãy nhà từ La Bombonera, sân vận động của Boca Juniors, một trong những câu lạc bộ bóng đá hàng đầu Argentina. Những cầu thủ nổi tiếng như Mauro Boselli và Juan Manuel Iturbe đã nổi lên từ câu lạc bộ này. Tham khảo Liên kết ngoài SRF (Swiss Radio and Television) — Video with interviews with the authors of the work (in German) Gabriel Batistuta — Tweet about the artwork Bóng đá Argentina Lionel Messi Diego Maradona
19856552
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20T%C3%A2n%20C%C6%B0%C6%A1ng
Chiến tranh Tân Cương
Chiến tranh Tân Cương () là một loạt các cuộc xung đột vũ trang diễn ra tại Tân Cương thuộc Trung Hoa Dân Quốc trong thời đại quân phiệt, nội chiến Trung Quốc và thời kỳ hiện đại. Các cuộc chiến tranh cũng đóng một vai trò quan trọng trong phong trào độc lập Đông Turkestan. Cuộc nổi dậy Kumul (1931–1934) Cuộc nổi dậy của người Kirghiz (1932) Trận Aksu (1933) Thảm sát Kizil (1933) Trận Sekes Tash (1933) Trận Kashgar (1933) Trận Ürümqi (1933) Trận Toksun (1933) Trận Ürümqi lần thứ nhất (1933) Trận Ürümqi lần thứ hai (1933–1934) Trận Kashgar (1934) Trận Yangi Hissar (1934) Trận Yarkand (1934) Trận Đầu Đồn (1934) Trận Đạt Phản Thành (1934) Liên Xô xâm chiếm Tân Cương (1934) Cuộc bạo động Charkhlik (1935) Cuộc nổi dậy của người Hồi giáo ở Tân Cương (1937) Cuộc nổi dậy Ili (1944–1949) Trận Baitag Bogd (1946–1948) Hợp nhất Tân Cương vào Trung Quốc (1949) Tham khảo Tân Cương thế kỷ 20 Chiến tranh liên quan tới Trung Hoa Dân Quốc Xung đột thập niên 1930 Trung Quốc thập niên 1930 Hồi giáo Trung Quốc Lịch sử quân sự Trung Hoa Dân Quốc (1912–1949)
19856557
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BFt%20%E1%BB%9F%20l%C3%A0ng%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20ng%E1%BB%A5c%20%28ti%E1%BB%83u%20thuy%E1%BA%BFt%29
Tết ở làng địa ngục (tiểu thuyết)
Tết ở làng địa ngục là tiểu thuyết của nhà văn Thảo Trang trong loạt truyện kinh dị của tác giả này cùng với Ngủ cùng người chết, Kẻ ăn hồn,... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Thảo Trang Tác phẩm này được chuyển thể thành phim do Trần Hữu Tấn làm đạo diễn, khởi chiếu chính thức vào ngày 23 tháng 10 năm 2023 trên nền tảng K+ và Netflix. Nội dung Cuốn sách mô tả cuộc sống của người dân trong làng Địa Ngục, đối mặt với nghiệp báo từ những linh hồn bị giết chết dã man bởi băng cướp tàn nhẫn. Trong bối cảnh những người dân này và tổ tiên của họ từng là những tên trộm, cướp dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vụ tấn công cuối cùng của bọn cướp vào đoàn người giàu khiến 193 người thương vong. Quân quân đuổi giết, chỉ còn vài trăm người sống sót, dừng chân tại Địa Ngục, nơi họ lựa chọn sống cuộc đời còn lại. Cuộc sống bình yên của làng bị chấn động khi đám cướp đột nhập vào và giết hại hàng trăm người. Chỉ còn lại ông Thập trưởng làng được phép rời đi để mang lương thực về, còn lại làng bị cô phụ nữ mang thai quay về trả thù. Mọi nỗ lực cứu làng của ông Thập trở nên vô ích khi người phụ nữ còn sống quay trở lại, hy sinh đứa con và linh hồn để có sức mạnh trả thù. Ngôi làng biến thành địa ngục đích thực, bầu trời màu đỏ tươi của máu. Những bí ẩn liên quan đến những án mạng kinh hoàng mở ra. Người dân trong làng đau đớn, hoang mang, nhận ra sự trừng phạt là do tổ tiên và bản thân họ gây ra những tội ác ở quá khứ. Tham khảo Tiểu thuyết của Thảo Trang Tác phẩm văn học Việt Nam Truyện Việt Nam
19856558
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20gi%C3%A0u
Siêu giàu
Giới siêu giàu (, viết tắt: UHNWI) hay còn gọi là cự phú, được định nghĩa là các cá nhân đang nắm giữ giá trị tài sản ròng đạt mức ít nhất 30 triệu USD theo tỷ giá đồng dollar năm 2018. Các nguồn khác như Credit Suisse định nghĩa siêu giàu là những người trưởng thành có khối tài sản ở trên mức 50 triệu đô. Đây là phân khúc tài sản nằm trên những người cực giàu (có nhiều hơn 5 triệu USD) và giới đại gia thông thường (lớn hơn 1 triệu USD). Mặc dù họ chỉ chiếm 0,003% dân số thế giới (ít hơn 1% của 33.000), tuy nhiên họ lại nắm giữ 13% tổng tài sản hiện có của thế giới. Tính đến năm 2017, có tất cả 226.450 cá nhân được xác định thuộc tầng lớp siêu giàu, tăng trưởng ở mức 3,5%, với toàn bộ tổng tài sản của họ gộp lại tăng lên là 27 nghìn tỷ đô. Xem thêm Giàu Đại gia Danh sách quốc gia theo tài sản của mỗi người trưởng thành Kinh tế học tài sản Tham khảo Liên kết ngoài Số lượng người siêu giàu có tài sản trên 30 triệu USD ở Việt Nam đã thay đổi ra sao trong năm 2023? Tập trung của cải Phân phối của cải
19856570
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steal%20the%20Show
Steal the Show
"Steal The Show" là một bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Lauv, nằm trong nhạc phim của bộ phim Xứ sở các nguyên tố năm 2023 của Disney/Pixar. Nhà soạn nhạc của phim Thomas Newman và Michael Matosic lần lượt đảm nhận phần nhạc và lời cho Lauv. Bài hát phát trong buổi hẹn hò của Ember Lumen và Wade Ripple, hai nhân vật chính của phim, cũng như phần danh đề cuối phim. Bài hát được phát hành vào ngày 2 tháng 6 năm 2023 dưới dạng đĩa đơn, hai tuần trước khi bộ phim phát hành. Tổng quan Vào ngày 2 tháng 6 năm 2023, có thông báo rằng Lauv đã biểu diễn bài hát gốc có tên "Steal the Show" được phát trong buổi hẹn hò của Ember và Wade và trong phần danh đề cuối phim, được phát hành vào ngày hôm đó. Trong giai đoạn đầu của việc sản xuất bộ phim, đạo diễn Peter Sohn, người thực sự đã sử dụng một trong những bài hát của Lauv để giữ chân người xem, vị đạo diễn yêu thích âm nhạc của Lauv và anh ấy nói khi được hợp tác cùng: "cuối cùng chúng tôi cũng có cơ hội làm việc với anh ấy, tôi đã tham khảo âm nhạc của anh ấy và cách chúng tôi sử dụng nó. Anh ấy nắm bắt được vẻ đẹp mà [Ember và Wade] nhìn thấy ở nhau và làm cho nó có thể còn hơn thế nữa. Chúng tôi rất xúc động khi lần đầu tiên nghe bài hát của anh ấy. Điều đó thật choáng ngợp và chúng tôi cảm thấy vô cùng biết ơn những gì anh ấy đã cống hiến cho bộ phim." Khi viết bài hát, Lauv đã ngồi nói chuyện với Thomas Newman, người đã cho anh ấy nghe một vài đoạn âm thanh khi họ đang làm việc cùng nhau. Ngay sau khi thu âm bài hát, Lauv được yêu cầu đồng sáng tác một bài hát cho ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Mimi Webb có tựa đề This Moment cho nhạc nền của một bộ phim hoạt hình khác được phát hành cùng tháng mang tên Ruby Gillman: Teenage Kraken. Video âm nhạc Vào ngày 2 tháng 6 năm 2023, bản Audio chính thức của bài hát đã được phát hành. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2023, MV chính thức của bài hát được phát hành. Trong MV là cảnh buổi hẹn hò đầu tiên của Ember và Wade. Đón nhận Tom Jorgensen của Next Best Picture đã khen ngợi bài hát gốc, nói rằng: "Bài hát" Steal The Show " của Lauv, phát trong buổi hẹn hò đầu tiên của Wade và Ember, là một ca khúc mang hàm ý thành công hay chiến thắng nào đó và sẽ giúp bạn thưởng thức một số chương trình phát trên đài phát thanh và cũng giúp mang lại cảm giác dễ chịu cho những người xem bộ phim." Bảng xếp hạng âm nhạc Bảng xếp hạng âm nhạc hàng tuần Bảng xếp hạng âm nhạc hàng tháng Bảng xếp hạng cuối năm Tham khảo Ballad thập niên 2020 Đĩa đơn năm 2023 Bài hát năm 2023 Xứ sở các nguyên tố Bài hát của Lauv Bài hát của Pixar Bài hát viết cho phim hoạt hình Đĩa đơn của Walt Disney Records
19856573
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A9m%20ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu
Thẩm hoàng hậu
Thẩm hoàng hậu (chữ Hán: 沈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. Thẩm Diệu Dung Thẩm phu nhân (Đường Đại Tông) Thẩm Vụ Hoa Thụy hiệu
19856578
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20c%E1%BB%A7a%20Putin
Kế hoạch của Putin
Kế hoạch của Putin (tiếng Nga: план Путина/Plan Putina/Putin's Plan) là tài liệu tham khảo không chính thức của chương trình hành động về chính trị và kinh tế của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Cả Putin và nhóm của ông ta đều không chính thức công bố bất kỳ chương trình toàn diện nào. Các khẩu hiệu ủng hộ "Kế hoạch của Putin" là chủ yếu trong chiến dịch bầu cử của Nước Nga thống nhất trong Bầu cử Quốc hội năm 2007 và cuộc Bầu cử tổng thống Nga năm 2008. Bản thân Putin cũng từng tuyên bố rằng thuật ngữ này không gì khác ngoài một khẩu hiệu trước thềm cuộc bầu cử dựa trên các đoạn trích từ 7 năm trong bài phát biểu Thông điệp Liên bang của ông trước Quốc hội Liên bang (Nga) liên quan đến sự phát triển dài hạn của các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội của đất nước. Thuật ngữ "Kế hoạch của Putin" được Chủ tịch Hội đồng tối cao nước Nga thống nhất Boris Gryzlov đưa ra. Khung khái niệm "Kế hoạch Putin" lần đầu tiên được Tổng Giám đốc APEC là D.Orlov tiết lộ vào tháng 5 năm 2007. Cương lĩnh Chương trình tranh cử của Nước Nga Thống nhất được gọi là "Kế hoạch Putin". Đảng Nước Nga thống nhất đã cô đặc tư tưởng chủ đạo của mình trong hai từ Vladimir Putin. Chương trình hành động của đảng mang tên "Kế hoạch Putin" này xác định hướng đi cho tương lai phát triển của nước Nga chỉ rõ, "sẽ biến sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Nga thành mức sống cao hơn cho dân chúng, tăng lương hưu, tăng tỷ lệ sinh đẻ và củng cố quân đội" tất cả đều là chính sách của Putin. Kế hoạch Putin là chương trình hành động của đảng Nước Nga thống nhất. Putin chuẩn bị một kế hoạch cho chiến lược phát triển đất nước trong nhiệm kỳ mới. Sự ủng hộ của người dân Nga sẽ đảm bảo cho thành công chính sách đầy tham vọng của ông Putin. Việc ông Putin tiếp tục nhiệm kỳ tổng thống lần thứ IV được dự đoán từ trước. Trong nhiệm kỳ 6 năm của mình, Tổng thống Nga sẽ tiếp tục chương trình nghị sự đang còn giang dở, chính quyền sẽ tiếp tục theo đuổi "kế hoạch Putin", nhằm xây một mô hình nhà nước dân chủ, xã hội công bằng, nền kinh tế đổi mới, duy trì và bảo vệ "thế giới Nga". Nội dung Trong chương trình bầu cử của đảng "Nước Nga thống nhất" trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2007, "Kế hoạch của Putin" được nêu ra với các điểm trọng tâm như sau: Phát triển mạnh mẽ hơn nữa nước Nga như một nền văn hóa Nga độc đáo, bảo vệ không gian văn hóa chung, ngôn ngữ Nga, truyền thống lịch sử của nước Nga. Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Nga thông qua tiếp cận phát triển đổi mới, hỗ trợ khoa học, phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường đầu tư chủ yếu vào công nghệ cao, công nghiệp là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Cung cấp các điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống mới bằng cách tiếp tục thực hiện các dự án ưu tiên quốc gia và tăng thêm đáng kể tiền lương, lương hưu cho hưu trí và học bổng để giúp người dân giải quyết vấn đề nhà ở. Putin sẽ chú trọng vào an sinh xã hội và quỹ hưu trí cho người dân. Hỗ trợ xã hội dân sự, thúc đẩy hoạt động và thay đổi xã hội, thúc đẩy các sáng kiến ​​cộng đồng, trọng tâm của ông chủ điện Kremlin trong trước và sau bầu cử tổng thống là "dân chủ và thế hệ trẻ". Củng cố chủ quyền của Nga, củng cố khả năng phòng thủ của đất nước, đảm bảo vị trí thích hợp của Nga trong một thế giới đa cực. Giễu cợt Gần như ngay lập tức cách diễn đạt này được các lực lượng phản đối Putin nhanh chóng diễn giải lại dựa trên nghĩa tiếng lóng tiếng Nga của thuật ngữ "план" chỉ về "cần sa", tức là đọc nó như là "chơi cỏ Putin". Một ban nhạc ít được biết đến "Корейские LЁDчики" từ Vladivostok đã trở nên nổi tiếng nhờ các bài hát Putin và Putin's "Plan"). Bộ phận Moscow của Liên minh các lực lượng cánh hữu đã gửi một văn bản yêu cầu tới Cơ quan kiểm soát ma túy liên bang Nga để kiểm tra xem "Kế hoạch của Putin" có phải là chất gây nghiện hay thuốc hướng thần hay không và tiến hành một cuộc biểu tình phản đối việc hợp pháp hóa chất được kiểm soát trong đó họ đã phát huy hiệu với nhiều dòng chữ chơi chữ khác nhau, chẳng hạn như "Xếp hạng cao của Putin là do Kế hoạch của Putin". Chú thích Nga Chính trị Nga Vladimir Putin
19856581
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%20Baptist%20Streicher
Johann Baptist Streicher
Johann Baptist Streicher (3 tháng 1 năm 1796 tại Viên - 28 tháng 3 năm 1871 tại Viên) là một nhà chế tạo đàn piano người Áo. Cuộc đời Ông học nghề chế tạo đàn piano từ cha mẹ mình và trở thành đối tác kinh doanh trong lĩnh vực này vào năm 1823. Nhà soạn nhạc nổi tiếng Johannes Brahms, một người yêu thích đàn piano của Streicher, đã từng nói trong lá thư của mình gửi tới nghệ sĩ piano người Đức Clara Schumann rằng "Trên nó [cây đàn của tôi], tôi luôn biết chính xác những gì tôi muốn viết và tại sao tôi muốn bằng cách này hay cách khác". Nhà chế tạo đàn piano đương đại Paul McNulty là người làm ra bản sao đầu tiên trên thế giới của cây đàn piano Streicher năm 1868. Đó là cây đàn mà Johannes Brahms nhận được từ Streicher vào năm 1870 và giữ trong ngôi nhà của mình đến khi ông qua đời. Danh sách đĩa nhạc Boyd McDonald. Johannes Brahms. The piano Miniatures. Fortepiano 1851 Streicher Hardy Rittner. Johannes Brahms. Complete Piano Music. Fortepiani 1846 Bosendorfer, 1856, 1868 Streicher Alexandre Oguey, Neal Peres De Costa. Pastoral Fables. Works for cor anglais and pianos. Streicher (Paul McNulty) Tham khảo Liên kết ngoài The Piano in Polish Collections, su www.fortepian.instrumenty.edu.pl. Institut für kunst-und musikhistorische Forschungen, Streicher, Familie Johann Andreas. Flügel von Baptist Streicher Wien 1870, su www.clavier-salon-goettingen.de. Streicher Piano Chém Chord lịch sử cho Conservatorium (trên Youtube) Bản sao đầu tiên trên thế giới của đàn piano Streicher do Paul McNulty tạo Johann Baptist Streicher und Sohn Grand Piano (Vienna, 1863), Andrzej Szwalbe Collection, Ostromecko Palace gần Bydgoszcz, Ba Lan Người Viên Nghệ sĩ Áo Sinh năm 1796 Mất năm 1871
19856584
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1ng%203%20n%C4%83m%202024
Tháng 3 năm 2024
Trang này dành cho tin tức về các sự kiện xảy ra được báo chí thông tin trong tháng 3 năm 2024. Tháng này sẽ bắt đầu vào thứ sáu và kết thúc vào chủ nhật sau 31 ngày. 1 tháng 3 Bầu cử lập pháp Iran 2024. 2 tháng 3 Ít nhất 3 người thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay xảy ra ở Barreiras, bang Bahia, Brasil. 3 tháng 3 4 tháng 3 5 tháng 3 Hàng loạt dịch vụ của Meta trong đó có mạng xã hội Facebook, Instagram gặp sự cố trên toàn cầu. 6 tháng 3 7 tháng 3 Thụy Điển chính thức trở thành thành viên thứ 32 của NATO, đánh dấu chấm dứt trung lập sau hơn 200 năm. 8 tháng 3 9 tháng 3 10 tháng 3 11 tháng 3 12 tháng 3 13 tháng 3 Tham khảo
19856586
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201998%20%E2%80%93%20Khu%20v%E1%BB%B1c%20Nam%20M%E1%BB%B9
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 – Khu vực Nam Mỹ
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 – Khu vực Nam Mỹ là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998, được tổ chức nhằm chọn ra 5 đội tham dự FIFA World Cup 1998. Khu vực Nam Mỹ được FIFA phân bổ 5 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1998. được đặc cách vào thẳng giải đấu do là đương kim vô địch, 9 đội còn lại tranh tài để giành 4 vé còn lại tham dự FIFA World Cup 1998. Đây là lần đầu tiên Vòng loại FIFA World Cup khu vực Nam Mỹ được tổ chức theo thể thức vòng tròn hai lượt sân nhà và sân khách. Các kỳ Vòng loại FIFA World Cup sau đều được tổ chức theo thể thức này. Thể thức 9 đội bóng được xếp vào cùng một bảng. Các đội thi đấu với nhau hai lượt trận sân nhà và sân khách để chọn ra 4 đội bóng dẫn đầu (dựa trên điểm số, hiệu số bàn thắng bại, thành tích đối đầu và các tiêu chí khác) giành quyền tham dự FIFA World Cup 1998. Kể từ vòng loại này, một trận thắng được tính là 3 điểm (trước đây là 2 điểm), một trận hòa là 01 điểm và một trận thua thì không có điểm. Bảng xếp hạng chung cuộc Các trận đấu Vòng 1 Vòng 2 Vòng 3 Vòng 4 Vòng 5 Vòng 6 Vòng 7 Vòng 8 Vòng 9 Vòng 10 Vòng 11 Vòng 12 Vòng 13 Vòng 14 Vòng 15 Vòng 16 Vòng 17 Vòng 18 Các đội vượt qua vòng loại 1 Im đậm là năm vô địch. In nghiêng là năm làm nước chủ nhà. Danh sách ghi bàn Có 184 bàn thắng được ghi sau 72 trận đấu (trung bình 2,56 bàn thắng/trận). 12 bàn thắng Iván Zamorano 11 bàn thắng Marcelo Salas 7 bàn thắng Faustino Asprilla 6 bàn thắng Álex Aguinaga Ariel Graziani Roberto Palacios 4 bàn thắng Ariel Ortega 3 bàn thắng Gabriel Batistuta Hernán Crespo Marco Etcheverry Marco Sandy Antony de Ávila Carlos Valderrama Eduardo Hurtado Miguel Ángel Benítez Arístides Rojas Marcelo Otero 2 bàn thắng Marcelo Gallardo Claudio López Diego Simeone Julio Baldivieso Jaime Moreno Berthy Suárez Javier Margas Pedro Reyes Jorge Bermúdez Hamilton Ricard Mauricio Serna Agustín Delgado Carlos Gamarra Derlis Soto Catalino Rivarola Germán Carty Juan Reynoso Guzmán Julinho Flavio Maestri José Pereda Jorge Soto Sebastián Abreu Paolo Montero Marcelo Saralegui Darío Silva Giovanni Savarese 1 bàn thắng José Albornoz Fernando Cáceres Néstor Gorosito Hugo Morales Pablo Paz Juan Pablo Sorín Juan Sebastián Verón Ramiro Castillo Milton Coimbra Luis Cristaldo Fernando Ochoaizpur Roly Paniagua Vladimir Soria Rodrigo Barrera Juan Carreño López Fernando Cornejo Fabián Estay Pedro González Vera Víctor Aristizábal Wilmer Cabrera Freddy Rincón Iván Valenciano Cléber Chalá José Gavica Iván Hurtado Alberto Montaño Máximo Tenorio Roberto Acuña Francisco Arce Richard Báez Hugo Brizuela José Cardozo José Luis Chilavert Julio César Enciso Félix Ricardo Torres Manuel Marengo Carlos Aguilera Pablo Bengoechea Gabriel Cedrés Eber Moas Gustavo Poyet Álvaro Recoba Gonzalo de los Santos Rafael Castellín Gerson Díaz Rafael Dudamel Dioni Guerra Gabriel Miranda Edson Tortolero 1 bàn phản lưới nhà Hugo Galeano (trong trận gặp ) Chú thích Liên kết ngoài Eliminatoria Sudamericana Mundial Francia 1998 at Conmebol.com International Matches 1996 – South America at rsssf.com International Matches 1997 – South America at rsssf.com Tham khảo Bóng đá Nam Mỹ năm 1997 Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới khu vực Nam Mỹ
19856588
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20chuy%E1%BB%81n%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202024
Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam 2024
Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam 2024 là mùa giải thứ 21 của Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam. Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam 2024 (giải bóng chuyền VĐQG 2024) được thay đổi thể thức thi đấu khi là mùa giải đầu tiên thi đấu theo thể thức vòng tròn tính điểm. Sự thay đổi nhằm hướng tới chuẩn thi đấu quốc tế và thu hút đông đảo lượng người theo dõi hơn. Danh sách các đội tham dự Giải bóng chuyền VĐQG 2024 có 18 đội tham dự (gồm 16 đội thi đấu ở giải VĐQG 2023 và 2 đội thăng hạng từ giải bóng chuyền hạng A năm 2023), cụ thể theo kết quả thứ hạng Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam 2023 Nam là: Sanest Khánh Hòa, Biên Phòng, Thể Công, Hà Tĩnh, LP Bank Ninh Bình, Lavie Long An, Hà Nội, Đà Nẵng và tân binh XSKT Vĩnh Long. Thứ tự của Nữ là: LP Bank Ninh Bình, HCĐG Lào Cai, VTV Bình Điền Long An, Binh chủng Thông tin - TTBP, Ngân hàng Công Thương, Geleximco Thái Bình, Quảng Ninh, XMLS Thanh Hóa và tân binh Hà Nội. Phương án, kế hoạch tổ chức Giải bóng chuyền VĐQG 2024 cúp Hóa chất Đức Giang là mùa giải đầu tiên thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt chia làm 2 giai đoạn, xếp hạng từ 1 đến 9. Sau khi kết thúc thi đấu vòng tròn, các đội dựa theo thứ hạng của mình để tiếp tục thi đấu vòng chung kết - xếp hạng, qua đó xác định đội vô địch cũng như 2 đội xuống hạng. Giai đoạn 1: Từ ngày 16/3 đến ngày 6/4/2024. Nội dung Nữ tại Bình Phước: Từ ngày 16/3 đến ngày 23/3/2024. Nội dung Nam tại Hà Tĩnh: Từ ngày 30/3 đến ngày 6/4/2024. Giai đoạn 2 và vòng chung kết - xếp hạng: từ ngày 7/11 đến ngày 1/12/2024. Nội dung Nữ tại Lào Cai: Từ ngày 7/11 đến ngày 17/11/2024. Nội dung Nam tại Bà Rịa – Vũng Tàu: Từ ngày 21/11 đến ngày 1/12/2024. Về thể thức thi đấu Vòng tròn 9 đội: Căn cứ vào kết quả thi đấu giải VĐQG và giải Hạng A năm 2023, các đội bốc thăm chọn mã số, thi đấu vòng tròn một lượt tính điểm theo mã số xoay vòng. Vòng chung kết - xếp hạng: Các đội xếp hạng 1-4 thi đấu vòng chung kết theo thể thức loại trực tiếp (đội hạng 1 gặp đội hạng 4 và đội hạng 2 gặp đội hạng 3), 2 đội thắng thi đấu trận chung kết tranh ngôi vô địch còn 2 đội thua thi đấu trận tranh hạng ba. Đội xếp hạng 5 đứng thứ 5 chung cuộc. Các đội xếp hạng 6-9 thi đấu vòng tranh trụ hạng theo thể thức vòng tròn 1 lượt tính điểm để xác định 2 đội xuống thi đấu giải Hạng A năm 2025 (điểm số của các đội ở vòng tranh trụ hạng được cộng dồn với điểm số ở vòng tròn 9 đội để xếp hạng). Danh sách ngoại binh thi đấu Mỗi CLB được phép đăng ký 2 ngoại binh trong danh sách, tuy nhiên chỉ 1 ngoại binh được thi đấu trên sân trong mỗi thời điểm của trận đấu. Danh sách Nam Danh sách Nữ Kết quả thi đấu vòng tròn 9 đội Nam |} |} |} |} |} |} |} |} |} |} Kết quả thi đấu vòng tròn 9 đội Nữ |} |} |} |} |} |} |} |} |} |} Vòng chung kết - xếp hạng Vòng tranh trụ hạng Nam |} |} Top 4 Nam Bán kết Nam |} Trận tranh hạng 3 Nam |} Chung kết Nam |} Vòng tranh trụ hạng Nữ |} |} Top 4 Nữ Bán kết Nữ |} Trận tranh hạng 3 Nữ |} Chung kết Nữ |} Xếp hạng chung cuộc Các giải thưởng Tổng giải thưởng: do Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam chi: Giải nhất: Cúp, cờ, huy chương vàng và 500.000.000đ. Giải nhì: Cờ, huy chương bạc và 300.000.000đ. Giải ba: Cờ, huy chương đồng và 200.000.000đ. Giải KK: 100.000.000đ. VĐV tấn công xuất sắc: 10.000.000đ. VĐV chuyền hai xuất sắc: 10.000.000đ. VĐV phòng thủ xuất sắc: 10.000.000đ. Tổ trọng tài xuất sắc: 10.000.000đ. Ngoài ra, các đội tốp đầu có thể nhận được các giải thưởng khác của các nhà tài trợ trao tặng khi kết thúc giải. Một số điểm nhấn của mùa giải Chú thích Việt Nam Giải đấu bóng chuyền Việt Nam Sự kiện thể thao
19856589
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gottfried%20Silbermann
Gottfried Silbermann
Gottfried Silbermann (14 tháng 1 năm 1683 - 4 tháng 8 năm 1753) là nhà chế tạo các nhạc cụ bàn phím người Đức, như đàn harpsichord, clavichord, organ và fortepiano. Cuộc đời Ông sinh ra ở Kleinbobritzsch và học chế tạo đàn organ từ anh trai mình ở Straßburg. Năm 1711, ông mở xưởng riêng của mình ở Freiberg và sau đó vào năm 1723 được ban tặng danh hiệu Königlich Polnischen und Churfürstlich Sächsischen Hof- und Landorgelmachers ("Nhà chế tạo đàn organ danh dự cho Đức Vua Ba Lan và Tuyển hầu tước bang Sachsen'') bởi Frederick I. Gottfried Silbermann thiết kế và chế tạo khoảng 50 cây đàn organ. Cây organ Hofkirche và của Nhà thờ Freiberg được cho là các tác phẩm vĩ đại nhất của ông. Silbermann cũng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử piano. Ông đã chế tạo cây đàn fortepiano đầu tiên của nước Đức, truyền bá lại cho những người chế tạo piano sau này những ý tưởng quan trọng của Bartolomeo Cristofori (người phát minh ra đàn piano). Bằng chứng từ Universal-Lexicon của Johann Heinrich Zedler chỉ ra rằng cây đàn piano đầu tiên của Silbermann được chế tạo vào năm 1732. Trong những năm 1740, Vua Frederick Đại đế của nước Phổ đã biết đến những cây đàn piano của Silbermann và mua một vài cây. Ông đã thuê Carl Philipp Emanuel Bach, lúc đó đang chơi một cây đàn fortepiano của Silbermann và viết nhạc cho loại đàn fortepiano đặc biệt này. Chúng cũng được chơi bởi Johann Sebastian Bach trong chuyến thăm của ông đến Potsdam. Những cây đàn piano của Silbermann đã được Bach "chấp thuận hoàn toàn" ("völlige Gutheißung"). Ngày nay hai trong số những cây đàn piano của Silbermann vẫn được đặt trong cung điện của Frederick ở Potsdam. Ngoài ra còn có một cây đàn piano Silbermann nguyên bản hiện đang được lưu giữ ở Bảo tàng Quốc gia Germanisches. Năm 2020, Paul McNulty đã chế tạo một bản sao cây đàn của Gottfried Silbermann phiên bản năm 1749. Cây đàn được ông làm dành cho nhà âm nhạc học Malcolm Bilson. Tham khảo Liên kết ngoài www.silbermann.org Gottfried-Silbermann-Society Life of Silbermann Potsdam Germanische National Museum in Nuremberg www.silbermannorgel-crostau.de Silbermann organ at Crostau A copy of Silbermann piano made by Paul McNulty for Malcolm Bilson Người Đức Nghệ sĩ Đức Sinh năm 1683 Mất năm 1753
19856595
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fryderyk%20Buchholtz
Fryderyk Buchholtz
Fryderyk Buchholtz (16 tháng 5 năm 1792 Olsztynek (Hohenstein, Prussia) - 15 tháng 5 năm 1837 Warsaw) là một nhà chế tạo piano và organ. Cuộc đời Sau khi hoàn thành việc học chế tạo đàn piano ở Viên, ông đến Warsaw và vào năm 1815 mở một xưởng sản xuất đàn piano tại 1352 phố Mazowiecka. Vị khách thường xuyên đến phòng trưng bày tại gia và cửa hàng của ông là F. Chopin. Nhà soạn nhạc đã mua một cây đàn piano của Buchholtz. Người ta nói rằng mỗi khi có hơn hai vị khách đến nghe Chopin chơi đàn, mọi người sẽ được chuyển đến xưởng Buchholtz. Sau cái chết của Buchholtz năm 1837, nhà máy được điều hành bởi vợ ông và con trai Julian từ năm 1841 đến 1846. Chỉ có một số nhạc cụ của Buchholtz còn tồn tại cho đến ngày nay. Vào năm 2017, Viện Fryderyk Chopin đã đặt hàng một bản sao của một cây đại dương cầm Buchholtz do Paul McNulty chế tác. Nó đã được sử dụng vào tháng 9 năm 2018 trong cuộc thi Chopin quốc tế đầu tiên trên các nhạc cụ thời xưa. Danh sách đĩa nhạc Krzysztof Książek. Fryderyk Chopin, Karol Kurpiński. Piano Concerto No.2 f-moll (solo version), Mazurkas, Ballade; Fugue & Coda B-dur. Played on a replica of a Buchholtz instrument made by Paul McNulty Tomasz Ritter. Fryderyk Chopin. Sonata in B Minor, Ballade in F minor, Polonaises, Mazurkas. Karol Kurpinski. Polonaise in D minor. Played on the 1842 Pleyel piano, the 1837 Erard piano and a replica of Buchholtz piano from ca 1825-1826 made by Paul McNulty Alexei Lubimov and his colleagues. Ludwig van Beethoven. Complete piano sonatas. Played on modern replicas of Stein, Walter, Graf, Buchholtz instruments made by Paul McNulty Tham khảo Liên kết ngoài The Fryderyk Chopin Institute, Buchholtz’s instrument store Buchholtz's pianos in Polish collections Narodowy Instytut Fryderyka Chopina Buchholtz piano brand The Andrzej Szwalbe Collection, Ostromecko Period pianos evoke sounds of Chopin at new contest. The Business Times Wieslaw Kochanski, REUNION68 Nghệ sĩ Ba Lan Sinh năm 1792 Mất năm 1837
19856597
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%20Fritz
Johann Fritz
Johann Peter Fritz là một trong những nhà chế tạo đàn piano nổi tiếng nhất ở Viên. Cuộc đời Những cây đàn piano của ông được đánh giá cao vì chất lượng tốt và giai điệu du dương. Được biết, Giuseppe Verdi rất thích những cây đàn piano của Johann Fritz và đã sử dụng cây đàn piano 6 pedal của Fritz từ thời của các vở opera Rigoletto năm 1851 đến Aida năm 1871. Chiếc đàn piano độc nhất này hiện nay có thể được chiêm ngưỡng tại Villa Verdi thuộc vùng Piacenza ở Ý. Một số nhạc cụ của Fritz hiện đang được trưng bày trong các viện bảo tàng như Bảo tàng Nhạc cụ ở Milan, Bảo tàng Mỹ thuật ở Boston, Tổ chức từ thiện Finchcocks cho Giáo dục Âm nhạc ở Tunbridge Wells, Kent. Một trong những bản sao hiện đại của những cây đàn piano của Johann Fritz được chế tạo bởi Paul McNulty đang được lưu giữ tại Đại học Regensburg ở Đức. Sau khi Fritz qua đời năm 1834 tại Viên, con trai của ông là Joseph tiếp tục điều hành công ty. Dường như ông đã chuyển xưởng của mình đến Graz vào cuối những năm 1830, sau năm 1837. Danh sách đĩa nhạc Howard Shelley. Schubert. Piano Sonatas Op. 78 in G, D. 894 & Op. posth. 143 in A minor, D. 784. Label: Amon Ra Andreas Staier. Schubert. The Late Piano Sonatas, D. 958-960. Label: Teldec Markus Schäfer, Tobias Koch. Franz Schubert, Ludwig Berger. Die schöne Müllerin. Label: Avi-Music Andreas Staier, Concerto Köln, Rainer Kussmaul. Mendelssohn. Piano Concerto in A minor, Concerto for Piano and Violin in D minor. Label: Teldec Trio Margaux. Chopin, Elsner. Fortepiano Trios. Label: Hänssler Anneke Scott, Steven Devine. Ludwig van Beethoven. Beyond Beethoven: Works for natural horn and fortepiano. Label: Resonus Olga Pashchenko. Beethoven. Variations. Played on a copy of Fritz piano 1818 by Christopher Clarke. Early piano series. CD 4. Label: Alpha-Classics Steven Lubin, the Academy of Ancient Music, Christopher Hogwood. Beethoven: Piano Concertos & Sonatas. Played on replicas: Anton Walter 1795, Conrad Graf 1824 by Rodney Regier, Johann Fritz 1818 (by Christopher Clarke). Label: L'Oiseau-Lyre Malcolm Bilson, Tom Beghin, David Breitman, Ursula Dütschler, Zvi Meniker, Bart van Oort, Andrew Willis. Ludwig van Beethoven. The complete Piano Sonatas on Period Instruments. Played on original fortepianos: Salvatore Lagrassa 1815, Gottlieb Hafner 1835, Johann Fritz 1825, Walter fortepiano copy by Paul McNulty, Walter copies by Chris Maene, Johann Schantz copy by Thomas and Barbara Wolf, a Walter and Conrad Graf 1825 copies by Rodney Regier, Label: Claves. Franz Danzi. Music for piano and winds. Volume 2. Johann Fritz 1814. Label: Devine Music. Johann Fritz 1814 piano Tham khảo Liên kết ngoài Johann Fritz Fortepiano FF - f4 after Fritz, ca. 1812 Salviamo Villa Verdi. Lanciata una campagna di raccolta fondi online Sant’Agata Villanova sull’Arda Người Viên Nghệ sĩ Áo Mất năm 1834
19856600
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valorant%20Champions%20Tour%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202023
Valorant Champions Tour mùa giải 2023
Valorant Champions Tour (VCT) mùa giải 2023 là mùa giải thứ 3 của VCT, là chuỗi giải đấu thể thao điện tử toàn cầu dành cho bộ môn Valorant trong năm 2023 do Riot Games điều hành. Chuỗi giải đấu diễn ra nhiều giải đấu quốc tế và khu vực xuyên suốt, đỉnh điểm là Valorant Champions 2023. Những đổi mới Valorant Champions Tour (VCT) năm 2023 đã có những thay đổi lớn so với VCT năm 2022. Những thay đổi này được coi như một bước chuyển mình mạnh mẽ vào năm 2023, thiết lập nền tảng cho sự phát triển của VCT 2024. Trước đây, các đội tuyển sẽ phải tham dự giải đấu do Riot Games tổ chức và dựa trên hệ thống điểm tích lũy để tham dự giải đấu cấp thế giới, tương tự như Chung kết Thế giới của Liên Minh Huyền Thoại. Tuy nhiên, kể từ năm 2023, hệ thống giải đấu chính của Valorant Esports mang tên Valorant Champions Tour (VCT) đã được chuyển đổi sang thể thức nhượng quyền thương mại. Theo thể thức này, các đội được tuyển chọn tham gia thi đấu trong từng khu vực và dựa trên thứ hạng, các đội sẽ được tham dự các giải đấu quốc tế như Masters và Valorant Champions. Các giải đấu trong khuôn khổ VCT được chia thành 3 khu vực lớn bao gồm: APAC (Châu Á–Thái Bình Dương), Americas (Châu Mỹ) và EMEA (Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi) thay vì 7 khu vực như trước đây. VCT 2023 có một cơ chế như 1 hệ thống 2 tầng, thay thế cho Challengers cũ, bao gôm 21 khu vực khác nhau trên khắp thế giới như Châu Mỹ, EMEA và Chấu Á, Bắc Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và một số khu vực khác. Cũng trong năm 2023, Riot Games thông báo có 3 giải đấu Ascension (Thăng hạng) hoàn toàn mới sẽ khởi tranh lần đầu tại mỗi khu vực. Đây là giải đấu thăng hạng dành cho các đội tuyển xuất sắc nhất đến từ hơn 20 giải đấu Challenger khác nhau của 3 khu vực lớn, nhằm tìm kiếm nhà vô địch sẽ nhận suất thăng hạng lên làm đội không phải viên của khu vực, tham gia thi đấu Giải đâu quốc tế (International Leagues) trong 2 năm sắp tới. Đối với giải đấu Challengers (Thách thức) trong năm 2023 là bàn đạp để tìm kiếm các đội tuyển xuất sắc đến từ hơn 20 khu vực nhỏ trên toàn thế giới đến với giải đấu Ascension của 3 khu vực lớn. Các đội tham dự Có tổng cộng 30 đội thành viên của 3 khu vực, với 10 đội mỗi khu vực, sẽ tham gia thi đấu các giải đấu của VCT mùa giải 2023 với thể thức nhượng quyền thương mại. LOCK//IN São Paulo Kết quả Masters Tokyo Vòng bảng Bảng A Bảng B Vòng loại trực tiếp Champions Los Angeles Vòng bảng Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng loại trực tiếp Tham khảo Chú thích
19856607
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Searaven%20%28SS-196%29
USS Searaven (SS-196)
USS Searaven (SS-196) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ cá biển Agonidae. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười ba chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 20.492 tấn. Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt. Chiếc tàu ngầm được sử dụng như mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử tại đảo Bikini vào tháng 7, 1946 nhưng chỉ bị hư hại nhẹ. Nó xuất biên chế vào cuối năm 1946, và sau cùng bị đánh chìm như một mục tiêu vào năm 1948. Searaven được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với dẫn trước, duy trì một tốc độ để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lớp Sargo có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric, có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Searaven được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 9 tháng 8, 1938. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 6, 1939, được đỡ đầu bởi bà Julianna B. Cole, phu nhân Chuẩn đô đốc Cyrus W. Cole, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 10, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Thomas Gordon Reamy. Lịch sử hoạt động 1939 - 1941 Phần thưởng Searaven được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 20.492 tấn. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-196 Lớp tàu ngầm Sargo Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II Tàu tham gia Chiến dịch Crossroads Tàu bị đánh chìm như mục tiêu Xác tàu đắm ngoài khơi bờ biển California Sự cố hàng hải năm 1944 Sự cố hàng hải năm 1946 Sự cố hàng hải năm 1948 Tàu thủy năm 1939
19856608
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hell%27s%20Kitchen%20M%E1%BB%B9%20%28M%C3%B9a%2022%29
Hell's Kitchen Mỹ (Mùa 22)
Mùa thứ 22 của loạt chương truyền hình thực tế cạnh tranh của Mỹ Hell's Kitchen (có phụ đề là Hell's Kitchen: The American Dream) được công chiếu trên Fox vào ngày 28 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 25 tháng 1 năm 2024. Gordon Ramsay trở lại với tư cách là người dẫn chương trình và bếp trưởng, trong khi quán quân mùa 10 Christina Wilson trở lại làm bếp phó của đội đỏ, á quân mùa 7 Jason Santos trở lại làm phó bếp cho đội xanh và Marino Monferrato trở lại làm bồi bàn trưởng. Quán quân của mùa giải đã thuộc về đầu bếp Ryan O'Sullivan, bếp phó Johnathan Benvenuti về thứ hai và đầu bếp/giám đốc sáng tạo Sammi Tarantino đứng thứ ba. Sản xuất Vào ngày 1 tháng 2 năm 2022, có thông báo rằng chương trình đã được gia hạn cho mùa thứ 21 và 22. Quá trình quay phim cho mùa này diễn ra vào tháng 2 năm 2022, sau khi quá trình sản xuất mùa trước hoàn thành. Vào ngày 11 tháng 7 năm 2023, có thông báo rằng phần thứ 22 sẽ ra mắt vào ngày 28 tháng 9 năm 2023. Các đầu bếp Mười tám đầu bếp tranh tài ở mùa 22. Tiến độ thí sinh Các tập Tham khảo Hell's Kitchen (Loạt chương trình truyền hình Mỹ) Mùa truyền hình Mỹ năm 2023 Mùa truyền hình Mỹ năm 2024
19856610
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Seawolf%20%28SS-197%29
USS Seawolf (SS-197)
USS Seawolf (SS-197) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá sói Đại Tây Dương. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười lăm chuyến tuần tra, đánh chìm 18 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 71.609 tấn, xếp hạng bảy về số lượng tàu và hạng 14 về tải trọng trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Chiếc tàu ngầm mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng tại khu vực Morotai, có thể do hỏa lực bắn nhầm từ tàu hộ tống khu trục vào ngày 3 tháng 10, 1944. Seawolf được tặng thưởng mười ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với dẫn trước, duy trì một tốc độ để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lớp Sargo có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric, có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Seawolf được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Navy Yard ở Kittery, Maine vào ngày 27 tháng 9, 1938. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 8, 1939, được đỡ đầu bởi bà Syria Florence Kalbfus, phu nhân Đô đốc Edward C. Kalbfus, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 12, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Frederick B. Warder. Lịch sử hoạt động 1939 - 1941 Phần thưởng Seawolf được tặng thưởng mười ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 18 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 71.609 tấn, xếp hạng bảy về số lượng tàu và hạng 14 về tải trọng trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Xem thêm Danh sách tàu ngầm Hoa Kỳ thành công nhất trong Thế Chiến II Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-197 On Eternal Patrol: USS Seawolf MaritimeQuest USS Seawolf SS-197 Lớp tàu ngầm Sargo Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu ngầm bị đánh chìm bởi tàu chiến Hoa Kỳ Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại Thái Bình Dương Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1944 Tàu thủy năm 1939 Sự cố quân ta bắn quân mình trong Thế chiến thứ hai Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
19856612
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Seawolf
USS Seawolf
Bốn tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Seawolf, theo tên theo tên loài cá sói Đại Tây Dương: , được đổi tên thành trước khi hạ thủy, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm H nhập biên chế năm 1913 và bị đắm do mắc cạn năm 1920 là một nhập biên chế năm 1939 và bị mất năm 1944 có thể do hỏa lực bắn nhầm là chiếc tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Hải quân Mỹ trong biên chế từ năm 1957 đến năm 1987 là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm nhập biên chế năm 1997 và hiện vẫn đang hoạt động Xem thêm Seawolf (định hướng) U.S.S. Seawolf (tiểu thuyết) Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19856617
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20h%E1%BB%93%20Como
Trung tâm hồ Como
Trung tâm hồ Como (người Ý: Centro-Lago, en Tiếng Anh: Center Lake Como) là một khu vực quan trọng và sang trọng nhất của Hồ Como, nằm trong vùng “Y” ven biển được tạo ra bởi hai nhánh của hồ. Khu vực này mở rộng khoảng 11 km về cả phía đông và phía tây, từ Varenna-Lierna đến Olcio và từ Punta Spartivento của Bellagio đến Borgo di Limonta-Vassena ở Oliveto Lario. Bao gồm bãi biển sỏi trắng hoang sơ, sân chơi gôn, dịch vụ thuyền sang trọng, cơ sở trực thăng và các khách sạn độc quyền. Với hình dáng đặc trưng của chữ “Y”, khu vực này thu hút sự chú ý của những người nổi tiếng, lãnh đạo doanh nghiệp và tỷ phú. Lake Center, khu vực quan trọng và sang trọng nhất của Hồ Como, nổi tiếng với vị trí đặc biệt, là nơi giao nhau của ba nhánh của lưu vực nước, hình chữ Y với Trung tâm Bellagio ôm lấy các ngôi làng cổ từ Lierna đến Sala Comacina về phía Nam, đến Menaggio và Varenna về phía Bắc. Các thị trấn nổi bật trong khu vực này bao gồm Bellagio, Lierna, Fiumelatte, Varenna, Menaggio, Olcio, Limonta, Vergonese, Cadenabbia, Perledo, Sala Comacina, Lenno, Azzano, Griante, Perledo, Visgnola, Ossuccio, San Giovanni (Bellagio), Tremezzina, Tremezzo. Trung tâm Hồ Como, giữa Bellagio, Lierna, Varenna, Menaggio và Tramezzina, đại diện cho khu vực đẹp và danh tiếng nhất của Hồ Como, với hàng thế kỷ sở hữu của quý tộc châu Âu. Giá của các biệt thự với tầm nhìn ra hồ và vườn tại khu vực này có thể vượt quá 350.000 euro mỗi mét vuông, tương đương với giá ở Costa Smeralda nổi tiếng. Địa lý Hồ Como nổi tiếng với mũi đất Bellagio ở Trung tâm Hồ, và tầm nhìn quyến rũ nhất được trải nghiệm từ đỉnh núi Monte di Lierna. Làng Lierna hình thành quanh một tảng đá cao vút trên hồ, đặc trưng bởi những ngôi nhà màu sắc đẹp mắt sắp xếp xung quanh vịnh. Trong bối cảnh quyến rũ này, hồ phản ánh màu sắc của các căn nhà, bầu trời và thảm thực vật xung quanh, trong khi du thuyền, thuyền và phà đưa đón đóng góp vào việc tạo nên một bầu không khí tinh tế, khiến cho Lierna trở thành một điểm dừng không thể bỏ qua trên bờ hồ Como. Dãy núi Centro-Lago Gruppo delle Grigne. - 2,410 м. Grigne - 2,410 м. Grignetta - 2,177 м. Monte Cucco - 1,436 м. Monte Palagia - 1,549 м. Monte di Lierna - 1,250 м. Bocchetta di Calivazzo - 1,420 м. Liện Bellagio Lierna Varenna Sala Comacina Cadenabbia Menaggio Thư mục Carlo Ferrario (1978). Ville e giardini del centro Lago di Como. Brunner & C. (1920). Lago di Como centro lago. Brunner & C. Giacomo C. Bascapè (1981). Ville e parchi del Lago di Como. ISBN 9788820503024 Liện kết ngoại Official Website Centro-Lago Trung tâm hồ Como Bellagio Official Website Centro-Lago “Hồ Trung tâm,” còn được gọi là Villa Carlotta, Villa Mylius-Vigoni ở Menaggio, Varenna với các khu vườn của Villa Monastero và Villa Cipressi. Chuyến tham quan thuyền trên sông, từ Varenna đến Lenno, đi qua Bellagio. Hồ băng Ý Hồ Lombardia Tỉnh Como Tỉnh Lecco Quỹ Rockefeller Hồ Anpơ của Ý
19856619
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20Black%20Clover
Danh sách nhân vật trong Black Clover
Bộ manga và anime Black Clover có dàn nhân vật hư cấu phong phú do Yūki Tabata tạo ra. Black Clover tập trung vào hành trình trở thành Ma pháp vương của Asta trong một thế giới nơi mọi người đều có phép thuật, trong khi Asta thì không. Nhân vật chính Asta Lồng tiếng bởi: Shun Horie (OVA), Gakuto Kajiwara (Anime) Thể hiện: Keisuke Ueda (kịch sân khấu) Asta (アスタ, Asuta) là một đứa trẻ mồ côi được mẹ cậu để lại cho một nhà thờ chăm sóc khi còn nhỏ. Cậu ta có khát vọng cao là trở thành Ma pháp vương tiếp theo. Cậu ta không sở hữu sức mạnh phép thuật, nhưng cậu đã khắc phục điểm yếu của mình bằng cách tăng cường sức mạnh thể chất, điều này cho phép cậu gia nhập Biệt đội Hiệp sĩ Phép thuật được gọi là Black Bulls sau khi có được cuốn ma đạo thư cỏ năm lá nơi ác quỷ Chống Phép thuật Liebe trốn trong đó. Cuốn ma đạo thư cho phép cậu ta sử dụng Khả năng kháng ma thuật một cách hiệu quả do cậu ta không có đủ mana. Cậu ấy cũng coi câu nói "Vượt qua giới hạn của mình" (限界をこえる, Genkai wo Koeru) của Yami làm triết lý cá nhân của mình trong trận chiến. Asta ban đầu sử dụng Thanh kiếm diệt quỷ vô hiệu hóa phép thuật trong Kỳ thi tuyển sinh Ma pháp Kỵ sĩ cũng như nhiệm vụ Làng Saussy, nơi cậu chiến đấu với Heath Grice cùng với Noelle và Magna. Yuno Grinberryall Lồng tiếng bởi: Sōma Saitō  (OVA), Nobunaga Shimazaki   Thể hiện: Naoki Takeshi (vở kịch sân khấu) Yuno Grinberryall (ユノ・グリンベリオール, Yuno Gurinberiōru) là đối thủ của Asta, người cũng có tham vọng cao trở thành Ma pháp vương. Cậu là một đứa trẻ mồ côi nhưng hóa ra lại là hoàng tử từ gia đình hoàng gia cũ của Vương quốc Spade, House Grinberryall, dựa trên các thiên thể tương tự như Phép thuật Mặt trời và mặt trăng. Cậu bị bỏ lại dưới sự chăm sóc của một nhà thờ trong thời thơ ấu khi cha mẹ cậu bị giết bởi Hắc Tam, có được một cuốn ma đạo thư cỏ bốn lá và trở thành thành viên của Kim Sắc Nhật Xuất đoàn. Cậu ta sử dụng Phong thuật và là đối tác được lựa chọn của Thần Gió Sylph trong 4 thuộc tính tuyệt vời. Sylph (biệt danh "Bell") thường cố gắng chơi đùa với Yuno, nhưng do thái độ nghiêm túc nên cậu thường xuyên phàn nàn. Thái độ nghiêm túc của cậu xuất hiện khi Asta bị thương khi bảo vệ cậu khỏi những kẻ bắt nạt khi còn nhỏ. Yuno chỉ có thể ngưỡng mộ cách Asta cứu cậu, mặc dù không có phép thuật, và điều đó khiến cậu cảm thấy xấu hổ. Để bù đắp điều này, cậu đã rèn luyện bản thân để trở thành người ngang hàng với Asta về mặt đạo đức. Phong thái lạnh lùng và trầm lặng thường ngày của cậu ấy chỉ bị phá vỡ khi câu đang tận hưởng, thường là khi chiến đấu với ai đó mạnh mẽ hoặc xem Asta chứng tỏ sức mạnh của mình. Cậu ta đã chứng tỏ mình là một ngôi sao đang lên trong hàng ngũ Kim Sắc Nhật Xuất đoàn, có khả năng đánh bại ngay cả những pháp sư mạnh nhất mà không cần nỗ lực nhiều. Noelle Silva Lồng tiếng bởi: Kana Yūki   Thể hiện: Arisa Komiya (kịch sân khấu) Noelle Silva (ノエル・シルヴァ, Noeru Shiruva) là thành viên tóc bạc của Hắc Bộc Ngưu đoàn và là con thứ tư của hoàng gia Vương quốc Clover, Nhà Silva. Mặc dù cực kỳ mạnh mẽ với tư cách là một hoàng gia, sở hữu một lượng mana khổng lồ, Noelle ban đầu gặp khó khăn trong việc kiểm soát Phép thuật Nước của mình khi anh trai Nozel tỏ ra phẫn uất với cô như một cách anh bảo vệ cô khỏi bị tổn hại và sự thật đằng sau cái chết của mẹ họ - Acier. Noelle sử dụng cây đũa phép như một phương tiện để đối phó với phép thuật này nhưng cuối cùng quá trình luyện tập và những phản hồi tích cực từ những người bạn mới trong Hắc Bộc Ngưu đã giúp cô khắc phục được khuyết điểm đó. Cô có tình cảm lãng mạn mãnh liệt với Asta, mặc dù cô ấy ngại bày tỏ điều đó (điển hình của một tsundere). Liebe Lồng tiếng bởi: Kenichiro Matsuda (dạng khổng lồ), Nobuhiko Okamoto (dạng thật) Liebe (リーベ, Rībe) là một ác quỷ cư trú trong cuốn ma đạo thư năm lá của Licht trước khi Asta có được nó, là nguồn gốc đằng sau khả năng kháng ma pháp của Asta. Xuất thân từ thế giới ngầm, việc Liebe thiếu phép thuật đã khiến anh bị xếp hạng thấp nhất trong đồng loại và liên tục bị dày vò. Nhưng việc thiếu phép thuật của Liebe đã cho phép anh tự do bước vào thế giới loài người và được nhận nuôi bởi Licita, mẹ của Asta, người đã nhận nuôi anh. Nhưng Lucifero đã chiếm lấy cơ thể của Liebe một phần trong nỗ lực tồn tại ở thế giới con người. Licita bị trọng thương khi cô sử dụng cơ thể hút ma pháp của mình để ngăn chặn Lucifero và sử dụng những giây phút cuối cùng của mình để phong ấn Liebe trong cuốn ma đạo thư năm lá nhằm bảo vệ anh khỏi bị chiếm hữu thêm. Cái chết của Licita đã khơi dậy lòng căm thù của anh đối với tất cả lũ quỷ và thúc đẩy anh cố gắng chiếm lấy cơ thể của Asta để tàn sát tất cả. Trong phần Khu rừng phù thủy, anh cho phép Asta khai thác một phần sức mạnh của mình để đánh bại Ladros. Sau trận chiến với Zagred, anh chế nhạo Zagred trước khi tan rã. Trong cuộc chiến giữa Asta và Yami với Dante, anh lấy cánh tay phải của Asta để đổi lấy việc trao cho cậu một số sức mạnh. Sau khi bị Asta đánh bại, anh lập một hợp đồng trong đó anh đồng ý trở thành bạn của Asta và cùng nhau chiến đấu với lũ quỷ. Trong cuộc chiến giữa Liebe và Asta với Lucifero, những ký ức của Liebe về Licita được chia sẻ với Asta. Nhận ra Liebe là anh trai cùng cha khác mẹ của mình, Asta trấn an anh về sức mạnh của mình khi cả hai đánh bại Lucifero. Sau trận chiến, Liebe hứa sẽ giúp Asta đạt được mục tiêu trở thành Ma pháp vương. Vương quốc Clover (cỏ ba lá) Ma Pháp Vương (Vua Pháp Sư) Lumiere Silvamillion Clover Lồng tiếng bởi: Syu Hikari Lumiere Silvamillion Clover (ルミエル・シルヴァミリオン・クローバ, Rumieru Shiruvamirion Kurōbā) là một hoàng tử loài người ngay từ những ngày đầu tiên của Vương quốc Clover, người muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người bằng cách chế tạo Công cụ Phép thuật và kết bạn với Licht vì cả hai đều mong muốn cùng tồn tại không phân biệt giữa chủng tộc con người và elf. Vào ngày kết hôn bí mật của em gái mình với Licht, Lumiere đã bị đánh bại do Zagred chiếm hữu sau khi cử các hoàng gia bị thao túng đi tàn sát yêu tinh và buộc Licht trở thành Yêu tinh bóng tối để phục vụ như một vật chứa tạm thời. Lumiere đến đúng lúc khi Licht cầu xin Lumiere giết anh ta, sau khi nguyền rủa cơ thể anh để Zagred không thể sử dụng nó. Lumiere được mệnh danh là Ma pháp vương đầu tiên ngay sau đó. Bị thương nặng sau trận chiến với Licht, Lumiere đã yêu cầu Secre hóa đá anh ta, để anh có thể được cô hồi sinh nếu Zagred sống lại. Anh chiến đấu với Zagred một lần nữa trong Cung điện Bóng tối với Secre, Asta, Yuno, Patry và Licht. Sau khi Zagred bị đánh bại và các linh hồn yêu tinh được phép yên nghỉ, Lumiere sẽ cùng họ sang thế giới bên kia khi phép thuật giúp anh sống sót mất dần và hài lòng rằng lý tưởng của mình vẫn tiếp tục tồn tại ở thế hệ mới. Julius Novachrono Lồng tiếng bởi: Toshiyuki Morikawa Julius Novachrono (ユリウス・ノヴァクロノ, Yurusu Novakurono) là Ma pháp vương thứ 28 và là người sử dụng Ma thuật Thời gian, nỗi ám ảnh về những dạng ma thuật mới và kỳ lạ khiến ông trốn tránh nhiệm vụ của mình khi rảnh rỗi. Julius trước đây là Đội trưởng Hiệp sĩ Phép thuật của Biệt đội Aqua Deer khi họ trước đây là Biệt đội Grey Deer; Yami và Vangeance đều là thành viên được Julius đích thân tuyển dụng vào Hiệp sĩ Phép thuật. Sau phần Làng Saussy, ông lang thang trong thành phố với tư cách là một bà già và vô cùng ngạc nhiên trước khả năng kháng ma thuật của Asta. Mặc dù ông ta bị Patry giết để lấy những Viên đá ma thuật mà mình đã bảo vệ Yami và Black Bulls, nhưng cuối cùng ông đã tự hồi sinh thông qua một công cụ ma thuật cổ xưa mà trước đó ông đã lưu trữ trong đó suốt 13 năm. Quá trình này đã hồi sinh Julius khi mới 13- cậu bé 1 tuổi bị suy giảm sức mạnh, khiến cậu không thể thực hiện một phần nhiệm vụ của mình với tư cách là Ma pháp vương. Ông tha thứ cho William về vai trò của mình trong các hành động của Party vì ông cảm thấy mình có phần phải chịu trách nhiệm. Bất chấp tình trạng của mình, ông vẫn tiếp tục làm việc để hỗ trợ các Ma pháp Kỵ sĩ, đồng thời giữ bí mật về tuổi của mình với công chúng. Trong cuộc xâm lược Vương quốc Spade, ông nhờ Damnatio giúp mình chiến đấu với con quỷ cổ xưa đang đe dọa Vương quốc Clover. Cả hai đều đấu tranh chống lại nó cho đến khi được Asta cứu. Sau trận chiến của Vương quốc Clover và Heart Kingdom chống lại Bộ ba bóng tối, Julius được tiết lộ là linh hồn còn lại cư trú trong cơ thể của Lucius Zogratis (ルシウス・ゾグラティス, Rushiusu Zoguratisu), anh trai của Bộ ba bóng tối, người đã lập một hiệp ước với ác quỷ Astaroth và thâm nhập vào Vương quốc Clover với tư cách là Julius. Lucius tái lập mình thành linh hồn thống trị, khiến linh hồn của Julius tạm thời chìm vào giấc ngủ, không cần ông ta nữa. Conrad Leto Lồng tiếng bởi: Toshihiko Seki Conrad Leto (コンラート・レト, Konrāto Reto) là Ma pháp vương thứ 27 và là người sử dụng Phép thuật then chốt, cho phép anh ta tạo ra các vết nứt không gian, là nhân vật phản diện của anime điện ảnh Black Clover: Sword of the Wizard King. Conrad trước đây là Đội trưởng Ma pháp Kỵ sĩ của Biệt đội White Serpent và được người dân Vương quốc Clover tôn trọng và yêu mến, có chung quan điểm và quyết tâm với Asta. Nhưng khi vợ anh là Lovilia bị sát hại, Conrad chìm trong đau buồn và thịnh nộ khi anh tấn công người dân của mình với ý định phong ấn linh hồn của họ trong Thanh kiếm của Ma pháp vương đầu tiên để hồi sinh những người mà anh cho là xứng đáng được sống. Nhưng anh ta đã bị Julius phong ấn, chỉ được tự do nhiều năm sau đó sau cuộc tấn công của Yêu tinh vào Vương quốc Clover để hoàn thành những gì anh ta bắt đầu với một số người tiền nhiệm đã được hồi sinh. Cố vấn Ma pháp vương Marx Francois Lồng tiếng bởi: Yoshitaka Yamaya Marx Francois (マルクス・フランソワ, Marukusu Furansowa) là một Ma pháp Kỵ sĩ và là một trong những cố vấn của Julius. Anh ta sử dụng phép thuật Ký ức để thu thập thông tin từ các cá nhân, chẳng hạn như gián điệp. Marx cố gắng thuyết phục Julius tập trung vào nhiệm vụ của mình với tư cách là Ma pháp vương, nhưng lại trở nên thất vọng mỗi khi ông lơ là để quan sát thêm phép thuật. Trong cuộc tấn công của Yêu tinh, anh ta bị chiếm hữu bởi một linh hồn Yêu tinh cùng với Owen. Anh và Owen chiến đấu với Yami một thời gian ngắn nhưng họ bị đánh bại và sau đó bị thanh tẩy. Sau khi Zagred bị đánh bại, anh tiếp tục nhiệm vụ của mình. Trong trận chiến với Lucius, anh cùng với Mimosa giúp sơ tán người dân. Owen Lồng tiếng bởi: Eiichiro Tokumoto Owen (オーヴェン, Ōven) là một Ma pháp Kỵ sĩ và là cánh tay phải của Julius, người chữa lành vết thương giỏi nhất trong Vương quốc Clover, sở hữu phép thuật Chữa bệnh bằng Nước cho phép mình gắn lại những cánh tay bị đứt rời hoặc mô phỏng tia X. Sau trận chiến ở arc Đền dưới biển, ông nói với Asta rằng ông ta sẽ không thể sử dụng cánh tay của mình, bị nhiễm phép thuật Lời nguyền Cổ xưa, vì xương của ông ta đang biến thành cát bụi. Sau khi Patry hoàn thành nghi lễ tái sinh, Owen cuối cùng bị linh hồn Yêu tinh chiếm hữu với phép thuật đảo ngược để tiêu diệt thay vì chữa lành. Ông và Marx chiến đấu với Yami một thời gian ngắn nhưng họ bị đánh bại và sau đó bị thanh tẩy. Sau khi Zagred bị đánh bại, ông ta tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nhà Kira Một trong ba gia tộc hoàng gia cùng với Nhà Vermilion và Nhà Silva, dòng dõi của Nhà Kira (キーラ家, Kīra-ke) bắt nguồn từ sự thành lập của Vương quốc Clover và nạn diệt chủng Yêu tinh. Augustus Kira Clover XIII Lồng tiếng bởi: Jun Miyamoto Augustus Kira Clover XIII (アウグストゥス・キーラ・クローバー13世, Augusutusu Kīra Kurōbā Jūsan-sei), Vua Clover hiện tại và là thành viên của Gia tộc Kira, là một người kiêu ngạo và nhỏ mọn, luôn nghĩ rằng cao quý là tất cả và không có gì ngoài sự khinh thường đối với thường dân. Ông ta vô cùng ghen tị khi mọi người không thừa nhận mình khi so sánh với Vua pháp sư. Nhu cầu được công nhận của Augustus đã thúc đẩy ông quyết định ghi công cho các Kỵ sĩ Hoàng gia mà Julius thực sự đã nghĩ ra. Mặc dù cực kỳ mạnh mẽ với tư cách là một thành viên hoàng gia thông qua việc sử dụng ma thuật ánh sáng, nhưng việc Augustus quá tự tin rằng chỉ riêng vị trí của mình đã khiến ông vượt trội hơn so với các đối thủ tiềm năng đã thuyết phục ông không trau dồi kỹ năng của mình. Vì vậy, phần lớn các phép thuật của ông ta chủ yếu là phô trương sức mạnh nhằm gây ấn tượng với người khác, mặc dù chúng thường có tác dụng ngược lại và dễ dàng được thực hiện. Damnatio Kira Lồng tiếng bởi: Hiroshi Tsuchida Damnatio Kira (ダムナティオ・キーラ, Damunatio Kīra) là thành viên của Gia tộc Kira, là chủ tịch Nghị viện Ma pháp của Vương quốc Clover, một người đàn ông lôi kéo và tàn nhẫn, đặt công lý lên trên cả gia đình mình. Hắn ta cũng là người sử dụng Phép thuật Quy mô, khiến hắn có thể thu nhỏ và chống lại mọi dạng phép thuật ngoại trừ Kháng ma pháp. Sau sự cố yêu tinh, sau khi cử các quý tộc chống chế độ quân chủ cố gắng giết Augustus trong lúc bối rối, Damnatio giám sát phiên tòa xét xử Asta vì sử dụng phép thuật bị cấm trước khi Hắc Bộc Ngưu can thiệp bằng việc Julius thông qua sắc lệnh cho một nhiệm vụ của đoàn bên ngoài Vương quốc Clover để cản trở hoạt động của Damantio, Damnatio cho phép điều này, nhưng thề sẽ đưa mọi Ma pháp Kỵ sĩ vào cuộc điều tra nếu nhiệm vụ của Asta thất bại và đe dọa Vương quốc Clover bằng mọi cách. Sau đó hắn được Julius yêu cầu giúp bảo vệ Vương quốc Clover khỏi một con quỷ cổ đại. Hắc Bộc Ngưu đoàn (Black Bulls) Yami Sukehiro Lồng tiếng bởi: Junichi Suwabe   Thể hiện: Haruto Sakuraba (kịch sân khấu) Có biệt danh là Chúa tể hủy diệt (破壊神, Hakaishin), Yami Sukehiro (ヤミ・スケヒロ) là đội trưởng của Hắc Bộc Ngưu, người được coi là Đội ma pháp kỵ sĩ tồi tệ nhất do các thành viên không chính thống và không ổn định, vừa mạnh mẽ về thể chất vừa đáng sợ và hay quan điểm đưa ra những lời đe dọa giết chết bất cứ ai làm phiền anh ta. Bất chấp sự hung hãn này, anh vẫn đóng vai trò là người cố vấn cho đoàn, muốn họ mạnh nhất có thể. Một trò đùa liên quan đến việc anh hay bị táo bón và đe dọa bất cứ ai làm phiền mình trong nhà vệ sinh, thường là Asta hoặc Finral. Anh dạy cấp dưới của mình, đặc biệt là Asta, vượt qua giới hạn của bản thân nếu họ cảm thấy mình đã đến giới hạn trong khi chiến đấu. Yami có nguồn gốc từ một quốc gia khác được gọi là Đất nước Mặt trời mọc (日ノ国, Hino Kuni) với tư cách là thành viên của một gia đình sát thủ được gọi là Gia tộc Yami (夜見一族, Yami Ichizoku). Sau khi được cho là đã giết gia đình mình, tha cho em gái Ichika, Yami trốn khỏi quê hương và đến Vương quốc Clover, nơi anh gia nhập Ma pháp Kỵ sĩ theo lệnh của Julius Novachrono mặc dù bị đồng nghiệp coi thường như người nước ngoài. Yami sử dụng Phép thuật Hắc ám, sử dụng nó để phủ phép thanh katana của mình vì loại phép thuật của anh được coi là đối cực của Phép thuật Ánh sáng do tính chậm chạp của nó. Ma thuật Hắc ám của anh ta cũng có thể can thiệp vào ma thuật từ thế giới ngầm, khiến anh trở thành tài sản quý giá. Anh ta cũng sở hữu giác quan thứ sáu cho phép anh ta cảm nhận được ki của đối thủ để dự đoán cuộc tấn công và phản công của chúng, giúp anh biết được mối liên hệ giữa Patry và William. Finral Roulacase Lồng tiếng bởi: Jun Fukuyama Finral Roulacase (フィンラル・ルーラケイス, Finraru Rūrakeisu) là thành viên của Hắc Bộc Ngưu. Anh sử dụng Phép thuật không gian chủ yếu để di chuyển, đồng thời là một kẻ lăng nhăng và hèn nhát, nhưng gần đây đã bắt đầu trở nên dũng cảm hơn. Trong phần lớn cuộc đời, anh bị cha và mẹ kế coi là thua kém so với em trai mình, Langris Vaude, do Finral không sở hữu các phép thuật tấn công. Không thể gánh vác trách nhiệm trở thành người đứng đầu Gia tộc Vaude, Finral rời nhà và lấy Roulacase, tên người mẹ đã khuất của anh, làm họ của mình. Sự thiếu trách nhiệm này đã khiến anh có tính cách vô tư, hèn nhát và sợ hãi trách nhiệm. Langris, em trai anh, cuối cùng trở thành Phó đội trưởng của Kim Sắc Nhật Xuất đoàn, đội được coi là mạnh nhất, và coi thường Finral và đoàn của anh. Sau cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia, Finral đã thiết lập một mối liên kết với Asta và Luck. Magna Swing Lồng tiếng bởi: Genki Muro Thể hiện: Kosuke Maiguma (kịch sân khấu) Magna Swing (マグナ・スウィング, Maguna Suwingu) là một thành viên của Hắc Bộc Ngưu và được miêu tả là cánh tay phải của Yami. Magna là một tên du côn tốt bụng nhưng nóng nảy, sử dụng Phép thuật lửa và cưỡi cây chổi cá nhân của mình, thứ mà anh gọi là "Phong cuồng Toàn phong". Mặc dù lượng mana vốn có của anh thấp nhưng anh đã bù đắp điểm yếu này bằng cách phóng ra một số quả cầu lửa có ma thuật thấp với nhiều hiệu ứng khác nhau. Magna ban đầu là một thường dân đến từ Làng Rayaka gần biên giới Vương quốc Clover, lạm dụng quyền lực của mình để chống lại ngôi làng Saussy gần đó. Anh thường xuyên chiến đấu chống lại già làng, mài giũa kỹ năng của mình trước khi trở thành đệ tử của ông, người đã ảnh hưởng đến lựa chọn gia nhập Ma pháp Kỵ sĩ của anh. Anh đóng vai trò là cấp trên của Asta và Noelle, đồng hành cùng họ trong một số nhiệm vụ như Làng Saussy, nơi anh ấy giúp họ chiến đấu với Heath Grice. Luck Voltia Lồng tiếng bởi: Ayumu Murase Thể hiện: Jumpei Mitsui (vở kịch sân khấu) Luck Voltia (ラック・ボルティア, Rakku Borutia) là thành viên của Hắc Bộc Ngưu, một người có tâm lý không bình thường sử dụng Phép thuật sét và luôn mỉm cười trong bất kể hoàn cảnh nào, đặt cho cậu ta biệt danh "Luck the Cheery Berserker." Cậu ta chiến đấu bằng cách tạo ra găng tay và ủng để tăng tốc độ và phóng những quả cầu sét. Sinh ra là một thường dân ở Làng Yvon và được nuôi dưỡng bởi một người phụ nữ rắc rối trước khi cô chết vì căng thẳng, Luck đã thấm nhuần quan niệm rằng chiến thắng trong một cuộc chiến cũng giống như được yêu thương. Điều này thúc đẩy cậu ta chiến đấu với những đối thủ mạnh hơn để kiểm tra sức mạnh của mình, gia nhập Ma pháp Kỵ sĩ trong khi bị mang tiếng xấu vì hành vi suýt giết chết đối thủ trong kỳ thi tuyển sinh. Cậu ta và Magna có một sự cạnh tranh tốt bụng, liên quan đến việc Luck ăn trộm bánh pudding của Magna để khiến Magna chiến đấu với cậu ta. Gauche Adlai Lồng tiếng bởi: Satoshi Hino Gauche Adlai (ゴーシュ・アドレイ, Gōshu Adorei) là một thành viên của Hắc Bộc Ngưu, người sử dụng Phép thuật Gương, được tăng cường bởi chiếc gương nhỏ thay cho mắt trái, cho phép anh ta tạo ra các bản sao gương của chính mình hoặc của người khác. Gauche ban đầu là một quý tộc nhiều năm trước khi cha mẹ anh qua đời trong một "tai nạn" và sau đó cả anh và em gái Marie đều bị một quý tộc khác cướp tài sản thừa kế và "ném" họ ra đường. Sự tận tâm của Gauche dành cho Marie, giáp với nỗi ám ảnh không lành mạnh khiến anh bị siscon, đã thúc đẩy anh chu cấp cho cô thông qua các hành vi phạm tội cho đến khi anh bị bắt và Marie bị đưa vào trại trẻ mồ côi. Gauche sau đó được Yami tuyển dụng khi cố gắng trốn thoát khỏi nhà tù và đến trại trẻ mồ côi. Mặc dù Gauche ban đầu không hòa hợp với đội, nhưng cuối cùng Gauche cũng bắt đầu cởi mở hơn với các thành viên sau khi thấy quyết tâm làm việc theo nhóm của Asta. Trong phần Làng Nean, anh đến thăm Marie vào dịp sinh nhật của cô, nhưng bắt đầu tìm cách "lấy mạng" Asta khi Marie nảy sinh tình cảm với cậu. Charmy Pappitson Lồng tiếng bởi: Kiyono Yasuno Charmy Pappitson (チャーミー・パピットソン, Chāmī Papittoson) là một thành viên của Hắc Bộc ngưu, người ăn uống liên tục và thường nghĩ đến đồ ăn, cô đã trưởng thành dù có vẻ ngoài trẻ con. Trong khi cô sử dụng Ma pháp Kẹo bông gòn để tạo ra những con cừu nấu bữa ăn cho mình, thì phép thuật của Charmy được cho là cực kỳ mạnh mẽ vì nó đã giúp cả đội thoát khỏi nhiều tình huống khó khăn, sử dụng phép thuật ràng buộc mạnh mẽ, tạo ra một con quái vật cừu khổng lồ và khôi phục phép thuật của con người, phép thuật duy nhất được biết có thể làm được điều đó. Trong cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia của Bạch Dạ Ma Nhãn, cô đã đánh bại Catherine khi cô nhầm tưởng rằng cô đang cố ăn trộm thức ăn của mình. Cô nảy sinh tình cảm với Yuno sau khi anh cứu đồ ăn cho cô trong cuộc tấn công thủ đô. Vanessa Enoteca Lồng tiếng bởi: Nana Mizuki Vanessa Enoteca (バネッサ・エノテーカ, Banessa Enotēka) là một phù thủy tóc hồng rất thoải mái của Hắc Bộc Ngưu. Trong thời thơ ấu của Vanessa, cô bị mẹ mình, Nữ hoàng phù thủy ghẻ lạnh, khi bà cố gắng đánh thức khả năng thay đổi vận mệnh của một người của Vanessa bằng cách giam cầm cô ấy trong phần lớn cuộc đời. Sau khi được Yami giải thoát, cô gia nhập Hắc Bộc Ngưu đoàn để rèn luyện con đường của riêng mình. Phép thuật Sợi chỉ của cô ấy cho mình khả năng tạo ra những sợi dây quá mỏng để thậm chí có thể phát hiện được bằng phép thuật, cho phép cô điều khiển con người và đồ vật trên chiến trường. Trong arc Đền dưới biển, cô tham gia vào trò chơi do Gifso thiết lập và giúp Asta và Finral chiến đấu với Vetto. Khi cánh tay của Asta bị nhiễm phép thuật nguyền rủa sau arc Ngôi đền dưới nước, cô trở về quê hương cùng Asta, Noelle, Finral, Fanzell, Dominante và Mariella để nhờ mẹ cô chữa lành cánh tay cho Asta. Cô giúp đồng đội của mình đánh bại Fana và Vương quốc Diamond. Cuối cùng, Nữ hoàng phản bội họ và buộc Asta phải giết bạn bè của cô, Vanessa sau đó đánh thức khả năng thay đổi số phận của mình, Sợi chỉ đỏ của vận mệnh, dưới hình dạng một ma thú hình dạng con mèo mà cô đặt tên là Rouge; nó đủ mạnh để phủ nhận bất kỳ kết cục nào mà Vanessa không mong muốn, chẳng hạn như cái chết của đồng đội cô. Khả năng này bảo vệ đoàn của cô khỏi bị tổn hại khi Rouge hoạt động. Grey Lồng tiếng bởi: Minami Takahashi, Masayuki Akasaka (khi cải trang) Gray (グレイ, Gurei) là một cô gái tóc xanh nhút nhát gia nhập Hắc Bộc Ngưu sau khi bị người mẹ kế bạo hành và những người chị kế song sinh lớn tuổi đuổi khỏi nhà, nảy sinh tình cảm với Gauche. Ban đầu sử dụng thứ được cho là Phép thuật Biến hình để mang hình dáng của người khác, ban đầu đóng giả là một người đàn ông bóng tối to lớn và bí ẩn. Gordon Agrippa Lồng tiếng bởi: Kenichiro Matsuda Gordon Agrippa (ゴードン・アグリッパ, Gōdon Agurippa) là một thành viên của Hắc Bộc Ngưu, người rất thân thiện và quý mến đồng đội của mình mặc dù bị hiểu lầm vì vẻ ngoài nhợt nhạt và đáng sợ cùng với thói quen thì thầm hầu hết thời gian. Là một chuyên gia về Ma thuật độc và những lời nguyền, Gordon xuất thân từ một gia đình bình dân chuyên về ma thuật nguyền rủa mà tổ tiên của họ sử dụng cho mục đích giết người. Vì điều này, anh hiếm khi tiếp xúc với bất kỳ ai trong suốt thời thơ ấu của mình, khiến anh phát triển kỹ năng giao tiếp kém. Anh tiếp tục bị từ chối khi trưởng thành do Ma thuật độc của mình, điều này càng làm tăng thêm mong muốn có bạn bè của anh ta. Ban đầu Gordon không muốn liên quan gì đến gia đình mình vì di sản của họ khiến anh bị cô lập thời thơ ấu. Sau nhiều trận chiến cùng đồng đội, anh đã bắt đầu lên tiếng nhiều hơn với các đồng đội của mình, những người hết lòng chấp nhận anh ấy. Zora Ideale Lồng tiếng bởi: Hikaru Midorikawa Zora Ideale (ゾラ・イデアーレ, Zora Ideāre) là một thành viên hoài nghi và thường thiếu tôn trọng của Hắc Bộc Ngưu, người sử dụng Phép thuật tro đa năng của mình để tạo ra nhiều bùa chú bẫy chống lại đối thủ của mình, phép thuật được sử dụng thường xuyên nhất của anh là phép thuật phản lại phép thuật của đối thủ với tốc độ gấp đôi sức mạnh. Anh chỉ trích gay gắt những người mà mình đánh bại. Hệ tư tưởng của Zora phát triển sau cái chết của cha anh là Zara, người rất tôn trọng các Ma pháp Kỵ sĩ và cuối cùng gia nhập Tử Kình đoàn với tư cách là Ma pháp Kỵ sĩ thường dân đầu tiên. Zara đã bị đồng đội bí mật giết chết trong một nhiệm vụ vì điều này. Điều này khiến Zora vỡ mộng, khiến anh ta căm ghét giới quý tộc và hoàng gia, đồng thời đặt mục tiêu đặt mọi Ma pháp Kỵ sĩ tham nhũng vào vị trí của mình, từ chối mặc áo choàng Ma pháp Kỵ sĩ của mình sau khi Yami phong anh làm thành viên. Anh ta thâm nhập vào Kỳ thi tuyển chọn Hiệp sĩ Hoàng gia dưới danh tính giả cho việc cá nhân của mình và liên tục tranh cãi với Asta do tính cách và thế giới quan hoàn toàn khác nhau của họ. Sau khi chứng kiến ​​​​sự dũng cảm, ý thức công bằng và mong muốn được làm việc với những người khác của cậu ấy, Zora cũng có cảm hứng làm việc với những người khác và quyết định chính thức tuyên bố mình là thành viên Hắc Bộc Ngưu đoàn. Henry Legolant Lồng tiếng bởi: Mitsuki Saiga Henry Legolant (ヘンリー・レゴラント, Henrī Regoranto) là chủ sở hữu thực sự của căn cứ nơi Hắc Bộc Ngưu đoàn sống, sử dụng Phép thuật Tái tổ hợp của mình để tu sửa lại tòa nhà và các phòng cho phù hợp, có xu hướng nói chuyện rất chậm. Xuất thân từ một gia đình quý tộc, cha mẹ của Henry buộc phải chuyển đến Vùng chung vì con trai họ sinh ra với căn bệnh do lời nguyền khiến cậu phải hút mana một cách thụ động từ người khác để sống. Henry cho rằng cái chết của anh là điều chắc chắn sau khi cha mẹ anh cuối cùng đã rời bỏ anh, chỉ được tìm thấy bởi Yami, người đã thuyết phục anh sống sót khi anh có ý định lấp đầy ngôi nhà của mình với nhiều người khỏe mạnh và năng động để hút mana từ đó. Henry kể từ đó bày tỏ ý thức nghĩa vụ với Hắc Bộc Ngưu, mặc dù những người khác cho rằng anh ta là một hồn ma vì anh hay bí mật lang thang trong căn cứ để chứng kiến ​​​​tình bạn thân thiết của đồng đội với Asta, thành viên Hắc Bộc Ngưu đoàn duy nhất khác biết về anh ta. Secre Swallowtail Lồng tiếng bởi: Hitomi Sasaki (Nero), Ayane Sakura Secre Swallowtail (セクレ・スワロティル, Sekure Suwarotiru) hayNero là một phụ nữ trẻ sống cách đây 5 thế kỷ tại Vương quốc Clover với tư cách là người hầu của Vua pháp sư Lumiere. Cô ấy đã giúp anh hoàn thiện các công cụ ma thuật của mình bằng Phép thuật Phong ấn của cô. Secre tự gánh chịu lời nguyền Weg sau khi cô phong ấn ác quỷ Zagred khỏi thế giới con người sống bằng những viên đá ma thuật làm nguồn năng lượng, khiến cô mọc sừng như một nhược điểm của Cấm thuật này. Hành động này đã thay đổi bản chất phép thuật của cô ấy, và cô có được khả năng biến thành hình dạng chim sau khi phong ấn Hoàng tử như một hòn đá, như một biện pháp an toàn, nếu Zagred quay trở lại một lần nữa. Secre vẫn ở dạng chim trong nhiều thế kỷ trước khi quyết định ở gần Asta sau khi gặp với cậu ta trong Kỳ thi tuyển sinh Ma pháp Kỵ sĩ. Cô ấy tiếp tục ở bên Asta ngay cả sau khi cậu được đưa vào làm thành viên của Hắc Bộc Ngưu đoàn. Khi nhìn thấy cô, các thành viên trong đoàn đã đặt tên cô ấy là "Nero" (黒). Khi ở cùng đoàn với tư cách là con chim cưng của họ, cô ấy đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thu thập phần lớn đá ma thuật cho họ. Nacht Faust Lồng tiếng bởi: Hiro Shimono Nacht Faust (ナハト・ファウスト, Nahato Fausuto) là đội phó bí ẩn của Hắc Bộc Ngưu đoàn, người sử dụng Phép thuật Bóng tối để điều khiển bóng tối theo nhiều cách khác nhau và thành thạo khả năng hợp nhất với các ác quỷ đã ký hợp đồng thông qua Devil Union để sử dụng sức mạnh của chúng cho anh. Trong quá khứ, Nacht là một tên du côn ích kỷ, người trở nên xa cách với người anh song sinh Morgen của mình khi anh gia nhập Xám Lộc đoàn, gắn bó một thời gian ngắn với Yami trước khi kết thúc tình bạn của họ. Khi Nacht biết về lịch sử nghiên cứu ma quỷ của gia đình mình, anh đã háo hức thể hiện tài năng khi lập khế ước với bốn con quỷ đeo mặt nạ động vật: Gimodelo (ギモデロ, Gimodero), Slotos (スロトス, Surotosu), Plumede (プルメデ, Purumede) và Walgner (ワルグナ, Waruguna). Nhưng anh ta đã vượt qua ranh giới của mình khi cố gắng khuất phục Ác quỷ tối cao tên là Lucifugus, dẫn đến việc Morgen lo lắng phải hy sinh bản thân để cứu anh trai mình. Đau buồn vì hành động ích kỷ của mình đã dẫn đến cái chết của em trai mình, Nacht thề sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân cho đến khi chính mình chết. Mặc dù không thích hầu hết các Ma pháp Kỵ sĩ, Nacht vẫn chấp nhận lời đề nghị của Yami để làm đội phó cho anh ta sau khi Hắc Bộc Ngưu được thành lập, với Julius là người duy nhất biết về anh ta. Trong phần lớn bộ truyện, Nacht trải qua một nhiệm vụ thâm nhập vào Vương quốc Spade. Anh quay trở lại Vương quốc Clover khi Hội Hắc Tam tuyên chiến để cung cấp thông tin tình báo và hỗ trợ anh ta trong việc âm mưu xâm lược Vương quốc Spade. Kim Sắc Nhật Xuất đoàn (Golden Dawn) Kim Sắc Nhật Xuất (金色の夜明け, Konjiki no Yoake) là đội mạnh nhất trong 9 đội, ít nhất là theo Hệ thống xếp hạng "Ngôi sao" của Ma pháp vương Julius. Việc lựa chọn hầu hết các thành viên của đoàn sau đó được tiết lộ là một phần trong kế hoạch của Patry vì phần lớn trong số họ là yêu tinh tái sinh. William Vangeance Lồng tiếng bởi: Daisuke Ono William Vangeance (ウィリアム・ヴァンジャンス, Wiriamu Vanjansu) là đội trưởng của Kim Sắc Nhật Xuất đoàn và là người thừa kế tiềm năng của Julius với tư cách là Vua pháp sư, sở hữu lượng mana khổng lồ và có thể sử dụng Ma pháp Cây thế giới. Sinh ra là con ngoài giá thú của một quý tộc vô danh, Vangeance phải chịu đựng một tuổi thơ bị ngược đãi khủng khiếp trước và sau khi được nhận làm quý tộc. Anh hình thành một tình bạn sâu sắc với Patry, người đã tái sinh vào cơ thể anh, vì mong muốn chăm sóc linh hồn bên trong anh của William đã cho anh lý do để sống qua thời thơ ấu của mình. Julius từng là người cố vấn và là bạn của William, thậm chí còn làm ra chiếc mặt nạ mà William đeo mà anh ấy làm đặc biệt để che đi vết sẹo mà William có từ khi sinh ra. Langris Vaude Lồng tiếng bởi: Kaito Ishikawa Langris Vaude (ランギルス・ヴォード, Rangirusu Vōdo) là cựu đội phó của đoàn và là em trai của Finral, đã thay thế anh trai làm người thừa kế của gia đình họ do sở hữu Phép thuật không gian mạnh hơn và tấn công hơn so với Finral. Điều này khiến Langris nảy sinh thái độ kiêu ngạo với anh trai mình. Tuy nhiên, Langris thầm ghen tị với tính cách tốt bụng của anh trai, nhận thấy mọi người thích bầu bạn với Finral hơn anh ấy. Langris cảm thấy mình phải giỏi hơn Finral về mọi mặt, nếu không thì mình thật vô giá trị. Trong phần Kiten, anh đánh bại Yagos nhưng không giết được anh ta cho đến khi được Asta và Finral cứu. Sau đó, anh lại tham gia kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia và gần như giết được Finral cho đến khi bị những người còn lại của Hắc Bộc Ngưu chặn lại. Anh và Asta đối đầu nhau sau đó. Langris hòa giải một phần với Finral, hiểu được anh ta, nhưng khẳng định Finral sẽ phá bỏ thói quen lăng nhăng của mình nếu anh thực sự muốn trở thành người đứng đầu Nhà Vaude, không muốn anh ta có được kết thúc có hậu dễ ​​dàng như vậy. Sau đó anh hỗ trợ Yuno trong trận chiến chống lại Zenon Zogratis ở Vương quốc Spade. Anh đấu tranh chống lại Zenon cho đến khi được Finral cứu. Họ làm việc cùng nhau và gây sát thương cho hắn ta, nhưng họ không giết được hắn cho đến khi được Yuno cứu. Klaus Lunettes Lồng tiếng bởi: Takuma Terashima   Thể hiện: Shuji Kikuchi (kịch sân khấu) Klaus Lunettes (クラウス・リュネット, Kurausu Ryunettos) là một quý tộc và là thành viên của đoàn, một người sử dụng Ma pháp Thép một cách nghiêm túc. Trong khi Klaus ban đầu coi thường Asta và Yuno vì "những cây gậy", anh ấy cuối cùng lại có quan hệ thân thiện với họ sau nhiệm vụ của họ trong ngục tối và chứng kiến ​​​​họ chiến đấu với Mars. Trong cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia của Bạch Dạ Ma Nhãn, anh giúp đồng đội của mình chiến đấu với lũ thây ma trước khi bị ma thuật không gian cuốn vào. Sau đó, anh tham gia kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia và được nhận vào Kỵ sĩ Hoàng gia. Tuy nhiên, trong cuộc đột kích vào nơi ẩn náu của Bạch Dạ Ma Nhãn, Klaus sau đó bị một linh hồn yêu tinh chiếm hữu theo nghi lễ của Patry và sau đó được thanh tẩy. Anh ta gần như bị giết khi Zenon xâm chiếm trụ sở của Kim Sắc Nhật Xuất đoàn. Sau đó anh tham gia vào trận chiến chống lại Lucius. Mimosa Vermillion Lồng tiếng bởi: Asuka Nishi Thể hiện: Yuka Kato (kịch sân khấu) Mimosa Vermillion (ミモザ・ヴァーミリオン, Mimoza Vāmirion) là thành viên hoàng gia của Gia tộc Vermillion và là thành viên của đoàn, là em họ của Noelle Silva thông qua việc dì của Noelle Silva kết hôn với Nhà Vermillion, người sử dụng Phép thuật Thực vật, chuyên về các phép thuật chữa bệnh. Sau khi chứng kiến ​​một đứa trẻ ăn trộm bánh mì để nuôi mình và đứa nhỏ, Mimosa học được cách không chia sẻ quan điểm hời hợt và kiêu ngạo của các quý tộc và hoàng gia khác, đồng thời đánh giá cao mọi người theo giá trị của họ, đặc biệt là tôn trọng sâu sắc Noelle do cô ấy học tập chăm chỉ hơn hơn bất kỳ quý tộc nào khác. Điều này khiến Mimosa có tính cách tốt bụng và dịu dàng hơn, mặc dù cô ấy có thể thẳng thừng và thô lỗ với những người mình ghét. Cô cũng yêu Asta sâu sắc sau khi chứng kiến ​​cauaj chiến đấu chống lại mọi khó khăn mặc dù không có ma pháp. Alecdora Sandler Lồng tiếng bởi: Genki Okawa Alecdora Sandler (アレクドラ・サンドラー, Arekudora Sandorā) là một quý tộc và là thành viên của đoàn, người sử dụng Ma pháp cát. Bản chất anh chủ yếu là khắc kỷ, đã hoàn toàn cống hiến hết mình cho William kể từ khi được cứu trong một nhiệm vụ và tin rằng chỉ có anh ấy mới có thể thực hiện được ước mơ trở thành Vua Pháp sư. Điều này khiến anh ta xung đột với Yuno, người mà anh cho là không xứng đáng với sự ưu ái của William, và hoàn toàn ghê tởm Yuno vì muốn trở thành Vua pháp sư tiếp theo. Hamon Caseus Lồng tiếng bởi: Kohsuke Toriumi Hamon Caseus (ハモン・カーセウス, Hamon Kāseusu) là một quý tộc và là Hiệp sĩ phép thuật trung cấp hạng 2 của đoàn và là Kỵ sĩ Hoàng gia của Vương quốc Clover. Anh là một người đàn ông vui vẻ, thích ăn uống và chia sẻ đồ ăn với người khác. Anh ta sử dụng Phép thuật Thủy tinh để tạo ra và điều khiển thủy tinh. Hồng Liên Sư Tử đoàn (Crimson Kings) Hồng Liên Sư Tử (紅蓮の獅子王, Guren no Shinshio) là một đoàn Ma pháp Kỵ sĩ có mối quan hệ chặt chẽ với Nhà Vermillion (ヴァーミリオン家, Vāmirion-ke), có dòng dõi bắt nguồn từ nền tảng của Vương quốc Clover và cuộc diệt chủng của Yêu tinh. Một nhánh của anh chị em trong gia đình được biết đến với mái tóc đỏ, khao khát sức mạnh và kỹ năng về Hỏa thuật. Nhánh còn lại được biết đến với mái tóc màu cam, tính cách trái ngược nhau và kỹ năng sử dụng phép thuật dựa trên tự nhiên. Fuegoleon Vermillion Lồng tiếng bởi: Katsuyuki Konishi Fuegoleon Vermillion (フエゴレオン・ヴァーミリオン, Fuegoreon Vāmirion) là thành viên hoàng gia của Nhà Vermillion và là đội trưởng của Hồng Liên Sư Tử, người sử dụng Ma pháp Hỏa mạnh mẽ và quy mô lớn. Anh ta không có thái độ kiêu ngạo như hầu hết các hoàng gia, sở hữu ý thức mạnh mẽ về công lý và thích giúp đỡ người khác trở nên mạnh mẽ hơn, bất kể địa vị. Trước các sự kiện của câu chuyện, anh đã tuyên bố ý định trở thành Vua Pháp sư và nhiều người tin rằng anh ấy đủ mạnh để trở thành vua của Vương quốc Clover nếu anh ấy muốn. Leopold Vermillion Lồng tiếng bởi: Kenn Leopold Vermillion (レオポルド・ヴァーミリオン, Reoporudo Vāmirion) là thành viên hoàng gia của Nhà Vermillion và là thành viên của đoàn. Anh ấy là em trai của Fuegoleon và Mereoleona, người cũng sử dụng Hỏa thuật và có nguyện vọng trở thành Vua pháp sư. Anh áp dụng hệ tư tưởng của anh chị em mình là đánh giá con người dựa trên sức mạnh, tính cách và mong muốn phát triển chứ không phải địa vị. Mặc dù cảm thấy thua kém sức mạnh của anh chị em mình nhưng anh vẫn tiếp tục làm việc chăm chỉ để tạo ra sức mạnh khác với họ. Mereoleona Vermillion Lồng tiếng bởi: Junko Minagawa Mereoleona Vermillion (メレオレオナ・ヴァーミリオン, Mereoreona Vāmirion ) là thành viên hoàng gia của Nhà Vermillion và là chị gái của Fuegoleon và Leopold, thay thế Fuegoleon và Leopold sau chấn thương. Cô tin rằng sức mạnh là tất cả, và không giống như hầu hết các hoàng gia, đánh giá con người dựa trên sức mạnh của họ chứ không phải địa vị. Được biết đến với biệt danh "Sư tử cái vô địch, bất bại", cô sử dụng Ma pháp Hỏa và do dành nhiều thời gian huấn luyện một mình trong tự nhiên nên có kỹ năng sử dụng mana tự nhiên. Cô đã thành thạo một kỹ thuật gọi là Mana Zone (マナゾーン, Manazōn), cho phép cô điều khiển mana trong môi trường xung quanh thay vì thông qua cơ thể, sử dụng những cú đấm mạnh mẽ từ bất cứ đâu. Cô ấy bất bại trong chiến đấu. Mereoleona rất hung hãn và thường sử dụng bạo lực với đoàn của mình. Cô cũng là chỉ huy hiện tại của Kỵ sĩ Hoàng gia, và đóng vai trò là người cố vấn cho Asta, do phong cách chiến đấu của họ liên quan đến cận chiến. Trong cuộc đột kích vào nơi ẩn náu của Bạch Dạ Ma Nhãn, cô áp đảo Rhya nhưng phải vật lộn chống lại 5 yêu tinh và được Asta và Zora cứu. Ngân Dực Đại Ưng đoàn (Silver Eagles) Ngân Dực Đại Ưng (銀翼の大鷲, Gin'yoku no Ōwashi) là một đoàn Kỵ sĩ Ma pháp có mối quan hệ chặt chẽ với Nhà Silva (シルヴァ家, Shiruva-ke) có dòng dõi bắt nguồn từ sự thành lập của Vương quốc Clover và nạn diệt chủng của Yêu tinh. Gia đình này nổi tiếng với mái tóc bạc, tính cách kiêu ngạo và kỹ năng sử dụng phép thuật hệ nước và hệ thép. Nozel Silva Lồng tiếng bởi: Kohsuke Toriumi  (tiếng Nhật); Ricco Fajardo  (tiếng Anh) Nozel Silva (ノゼル・シルヴァ, Nozeru Shiruva) là hoàng gia của Nhà Silva và là đội trưởng của Ngân Dực Đại Ưng, đối thủ thời thơ ấu của Fuegoleon Vermillion, sở hữu khả năng sử dụng Ma pháp Thủy ngân trong việc điều khiển kim loại lỏng. Nozel là một trong số ít người biết rằng mẹ anh Acier đã bị giết bởi lời nguyền của Megicula, đồng thời bị nhiễm một lời nguyền phụ nếu anh nhắc đến Megicula cho bất cứ ai sẽ giết anh. Điều này khiến anh ta phải che giấu sự thật với anh chị em của mình trong khi tỏ ra bực bội với Noelle để ngăn cản cô trở thành Kỵ sĩ Ma pháp và phải chịu mọi hình thức nguy hiểm do cô không thể kiểm soát phép thuật của mình. Trong cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia của Bạch Dạ Ma Nhãn, anh giúp gia đình mình chống lại lũ thây ma trước khi bị cuốn theo ma thuật không gian và thề sẽ không bao giờ gây rối nữa sau khi chứng kiến ​​những gì đã xảy ra với Fuegoleon. Nebra Silva Lồng tiếng bởi: Yurika Aizawa Nebra Silva (ネブラ・シルヴァ, Nebura Shiruva) là hoàng gia của Nhà Silva và là chị gái của Noelle, một người phụ nữ quá tự tin, thích đùa giỡn với đối thủ của mình trong khi coi thường những người mà cô cho là thấp kém. Cô sử dụng Ma thuật sương mù để tạo ra ảo ảnh về bản thân và phóng những viên đạn nước. Trong cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia của Bạch Dạ Ma Nhãn, cô giúp gia đình mình chống lại lũ thây ma trước khi bị ma thuật không gian cuốn vào. Solid Silva Lồng tiếng bởi: Shouma Yamamoto Solid Silva (ソリド・シルヴァ, Sorido Shiruva) là hoàng gia của Nhà Silva và là anh trai thứ hai của Noelle, Solid là một thanh niên tàn bạo thích lăng mạ những người mà anh ta coi là thấp kém, thậm chí cả em gái Noelle của mình. Từ khi còn nhỏ, Solid không ngừng chế nhạo Noelle và chỉ coi cô là nỗi xấu hổ của gia đình họ. Vì điều này, Noelle ban đầu rất sợ Solid. Giống như Noelle, Solid sử dụng Phép thuật Nước. Trong cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia của Bạch Dạ Ma Nhãn, anh giúp gia đình mình chống lại lũ thây ma trước khi bị ma thuật không gian cuốn theo. Sau đó, anh tham gia kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia và đối mặt với Noelle ở các đội đối lập nhưng cô đã đánh bại anh trong trận chiến một chọi một. Anh ta không được chấp nhận vào Kỵ sĩ Hoàng gia. Thúy Lục Đường Lang đoàn (Green Praying Mantises) Jack the Ripper Lồng tiếng bởi: Daisuke Namikawa Jack the Ripper (ジャック・ザ・リッパー, Jakku Za Rippā) là Đội trưởng của Thúy Lục Đường Lang, một kẻ tàn bạo xuất thân từ một gia đình thợ săn trò chơi nhỏ có cơn khát máu bắt nguồn từ những năm thiếu niên khi anh giết một con gấu khổng lồ đã giết chết cha mình. Anh coi Yami là đối thủ và đối thủ xứng đáng. Jack sử dụng Ma pháp cắt đứt để tạo ra những cánh tay mana có thể thay đổi đặc tính của chúng để phù hợp với phép thuật của đối thủ, cho phép anh ta chém hầu hết các phép thuật và từng được tuyên bố là có thể cắt xuyên núi. Sekke Bronzazza Lồng tiếng bởi: Ryōta Ōsaka   Sekke Bronzazza (セッケ・ブロンザッザ, Sekke Buronzazza) là một người lăng nhăng trẻ tuổi đã tham gia Kỳ thi tuyển sinh Kỵ sĩ Ma pháp để có cơ hội gia nhập đoàn Kỵ sĩ Ma pháp cấp cao, cố gắng thao túng Asta, người mà anh ta coi là người tham gia tệ nhất để khiến bản thân trông đẹp hơn. Anh phát triển thái độ kiêu ngạo của mình từ những thường dân, những người coi anh ta thực sự tốt tính. Tuy nhiên, Sekke đã thua Asta trong bài kiểm tra chiến đấu và chỉ có thể được nhận vào đoàn của Ripper, từ đó mang mối hận thù với Asta, người đã nhắc đến anh bằng tiếng cười "Bah-ha". Sekke sử dụng Phép thuật Đồng để tạo và chế tác đồng theo nhiều cách khác nhau. Sau đó anh tham gia Kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia nhưng không được nhận vào. Sau khi "cứu" Vua Augustus khỏi một hiệp sĩ ma thuật Coral Peacock bị chiếm hữu, anh ta trở thành người hầu riêng của vua kể từ thời điểm đó, khiến anh rất miễn cưỡng vì chỉ đơn giản là chạy trốn khỏi sự hỗn loạn mà con quỷ gây ra trong vương quốc. En Ringard Lồng tiếng bởi: Satoshi Hino En Ringard (エン・リンガード, En Ringādo) là một Kỵ sĩ Ma pháp của đoàn. Anh ta sử dụng Ma pháp Nấm, cho phép anh ta tạo ra nấm với nhiều hiệu ứng khác nhau. Anh cũng có thể gắn bào tử vào người để hoạt động liên lạc. Là anh cả trong số 11 anh chị em, anh ấy rất bảo vệ họ và không thể chịu đựng được cách đối xử của Solid với em gái Noelle. Mặc dù là một người khá yếu đuối và nhút nhát, anh ta tỏ ra hoạt động mạnh mẽ và hung hãn, thường là thông qua những chiếc nấm biết nói của mình. Sau đó anh được giới thiệu vào Đội Kỵ sĩ Hoàng gia sau khi tham gia kỳ thi. Bích Dã Tường Vi đoàn (Blue Rose Knights) Một đội hình toàn nữ được xây dựng dựa trên nguyên tắc phụ nữ có quyền lực cao hơn nam giới. Charlotte Roselei Lồng tiếng bởi: Yū Kobayashi Charlotte Roselei (シャルロット・ローズレイ, Sharurotto Rōzurei) là Đội trưởng của Bích Dã Tường Vi với khả năng sử dụng Ma pháp cây tầm xuân, cho phép cô điều khiển những dây leo hoa hồng có gai. Charlotte miêu tả mình là một người phụ nữ lạnh lùng và tự tin, rõ ràng không thích đàn ông mặc dù có tình cảm thầm kín với Yami. Đây là kết quả của việc Charlotte phải chịu một lời nguyền thời thơ ấu do kẻ thù của gia đình cô gây ra, một câu thần chú bị cấm kích hoạt ở tuổi 18 khiến mana của Charlotte trở nên điên cuồng, giết chết cô và bất cứ ai xung quanh cô. Mặc dù phương pháp duy nhất để phá bỏ lời nguyền là biết đến tình yêu, nhưng thay vào đó, Charlotte lại cố gắng rèn luyện bản thân để thực thi quyền kiểm soát ma pháp của mình. Tuy nhiên, điều đó khiến cô suýt bị giết cho đến khi Yami liều mình cứu cô, dẫn đến tình cảm của cô dành cho Yami đã phá bỏ lời nguyền. Charlotte quá ngại ngùng khi bày tỏ tình cảm của mình với Yami và thay vào đó, cô dựng lên một bức màn chế nhạo và tự cao tự đại. Sol Marron Lồng tiếng bởi: Haruna Kakiage Sol Marron (ソル・マロン, Soru Maron) là thành viên của đoàn và là Kỵ sĩ trung cấp hạng 3 sử dụng Ma pháp Thổ. Cô ấy gia nhập Kỵ sĩ Ma pháp sau khi được Charlotte cứu khi còn nhỏ, và vì thế cô ấy rất bảo vệ Charlotte và thường nhắc đến cô để khiến mình mất tinh thần. Ban đầu cô có thái độ thù địch với Yami cho đến khi cô ấy buộc phải cho phép anh đối phó với linh hồn yêu tinh đang chiếm hữu Charlotte và từ đó đã khoan dung với Yai. Tử Kình đoàn (Purple Orcas) Gueldre Poizot Lồng tiếng bởi: Tomokazu Sugita Gueldre Poizot (ゲルドル・ポイゾット, Gerudoru Poizotto) là cựu Đội trưởng của Tử Kình đoàn ở đầu bộ truyện. Gueldre là một thương gia thành đạt, người đã sử dụng Ma pháp trong suốt, khiến hắn ta trở nên vô hình và không bị ảnh hưởng bởi phép thuật, để vươn lên trong xã hội bằng cách bán các vật phẩm ma pháp tuyệt mật và buôn lậu các vật liệu nguy hiểm. Hắn ta thực hiện các hoạt động của mình trong Kỵ sĩ Phép thuật, sử dụng tư cách đội trưởng của mình để đe dọa cấp dưới của mình. Các hoạt động của Gueldre cuối cùng cũng bị bại lộ khi hắn ta được tiết lộ là người đã cho phép Bạch Dạ Ma Nhãn tấn công thủ đô khi họ đề nghị trao cho hắn ta sự giàu có. Khi Yêu tinh bắt đầu cuộc tấn công vào Thủ đô, Gueldre buộc phải liên minh với Revchi trong khi cố gắng trốn thoát trong cuộc hỗn loạn và cuối cùng cả hai phải đến Cung điện Bóng tối. Hắn và Revchi bị Yami bắt sau trận chiến với Zagred. Kaiser Granvorka Lồng tiếng bởi: Kenichirō Matsuda Kaiser Granvorka (カイゼル・グランボルカ, Kaizeru Guranboruka) là Đội trưởng hiện tại của đoàn sau khi Gueldre bị bắt, được gọi là "lá chắn tối thượng" của Vương quốc Clover nhờ khả năng thông thạo Ma pháp Xoáy, giúp ngăn chặn và phân tán phép thuật của đối thủ. Sau đó, anh ta được tiết lộ là người tiếp đón một Sứ đồ Yêu tinh mà Fuegoleon phải đối mặt trong Cung điện Bóng tối, nơi sau đó đã bị thanh tẩy. Revchi Salik Lồng tiếng bởi: Yūto Suzuki   Revchi Salik (レブチ・サリーク, Rebuchi Sarīku) là cựu thành viên của đoàn và là nhân vật phản diện đầu tiên mà Yuno và Asta chạm trán ở đầu bộ truyện, sở hữu Chuỗi ma pháp cho phép hắn ta vô hiệu hóa mọi ma pháp. Khả năng đó dẫn đến việc hắn ta bị đuổi khỏi Kỵ sĩ Ma pháp sau khi bị Gueldre sắp đặt thực hiện một nhiệm vụ thất bại khiến mặt hắn ta bị bỏng. Khi Yuno có được cuốn ma đạo thư bốn lá của mình, Revchi đã âm mưu đánh cắp cuốn ma đạo thư đó nhưng hắn ta bị bắt vì tội ác của mình sau khi Asta vô hiệu hóa thành công sợi xích của Revchi. Khi Yêu tinh bắt đầu cuộc tấn công vào Thủ đô, Revchi đã cố gắng trốn thoát khỏi nhà tù và trả thù Gueldre trước khi cả hai nhận ra rằng cả hai đều ghét Asta vì đã phá hỏng kế hoạch của họ và cuối cùng hợp tác cùng nhau để chống lại các Yêu tinh đang tấn công. Cuối cùng anh và Gueldre đến Cung điện Bóng tối để đánh cắp vàng và vật phẩm ma pháp nhưng bị Yami bắt sau trận chiến với Zagred. Xerx Lugner Lồng tiếng bởi: Wataru Tsuyuzaki Xerx Lugner (ザクス・リューグナー, Zakusu Ryūgunā) là đội phó của đoàn và là một pháp sư băng được mệnh danh là Thánh băng tinh khiết. Trong khi được nhiều người cho là người có đạo đức và bảo vệ danh dự cho đội của mình, hắn ta thực sự là một Kỵ sĩ Ma pháp tham nhũng, chuyên ngược đãi thường dân và những người yếu hơn mình. Khi thường đóng quân ở biên giới Vương quốc Clover, hắn quay trở lại thủ đô để tham gia kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia trước khi bị Zora Ideale đánh đập dã man vì cách đối xử với một phụ nữ thường dân. Xerx sau đó bị chiếm hữu bởi một linh hồn yêu tinh, kẻ cố gắng phá hủy thị trấn Hecairo trước khi Asta đánh bại và thanh tẩy yêu tinh đó. Lam Lộc đoàn (Aqua Deers) Rill Boismortier Lồng tiếng bởi: Natsuki Hanae   Rill Boismortier (リル・ボワモルティエ, Riru Bowamorutie) là Đội trưởng của Lam Lộc đoàn, có khả năng biến những gì anh ấy vẽ có sự sống và tái tạo bất kỳ thuộc tính ma thuật nào thông qua Ma pháp minh họa của mình. Khi nhận được cuốn ma đạo thư của mình, anh thất vọng khép mình lại, chật vật tìm kiếm cảm hứng nghệ thuật, gây ra sự tàn phá trong những cơn tức giận. Người quản gia và người bạn Walter của anh đã dạy anh cách thừa nhận cảm xúc của người khác, khuyến khích anh chia sẻ nghệ thuật của mình và truyền cảm hứng cho anh tham gia Ma pháp Kỵ sĩ. Anh là người trẻ nhất trong số các Đội trưởng các đoàn, ở tuổi 19 - chỉ hơn Asta và Yuno 4 tuổi. Anh ấy có thái độ giản dị, thoải mái phù hợp với độ tuổi của mình và thích trò chuyện với những người gần bằng tuổi mình như Asta, vì anh phải quá lịch sự với các Đội trưởng Ma pháp khác, những người lớn tuổi hơn anh. Anh ấy trở thành bạn của Asta sau khi nhìn thấy khả năng Kháng ma pháp của cậu và biết được độ tuổi của Asta. Anh tham gia kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia và được nhận vào. Khi Patry tiến hành nghi lễ hồi sinh chủng tộc Yêu tinh, Rill cuối cùng trở thành vật chứa của Yêu tinh Lira (リラ, Rira) của các Tông đồ của Sephirah. Làm quen với cơ thể và sức mạnh mới của mình, Lira đi cùng Patry đến Cung điện Bóng tối, nơi hắn giữ chân Asta và Mimosa trước khi trở nên xấu tính với Charmy và vô tình đánh thức di sản Người lùn của cô. Yêu tinh sau đó bị thanh tẩy và anh nảy sinh tình cảm với hình dạng trưởng thành của Charmy dựa trên những ký ức mơ hồ về việc bị chiếm hữu (không biết đó là Charmy), và cô ấy là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật của mình, và do đó, cho sức mạnh của anh. Anh ấy đến Vương quốc Trái tim để huấn luyện trong sáu tháng. Khổng Tước đoàn (Coral Peacocks) Dorothy Unsworth Lồng tiếng bởi: Mariya Ise Dorothy Unsworth (ドロシー・アンズワース, Doroshī Anzuwāsu) là Đội trưởng của Khổng Tước đoàn, Dorothy là một phù thủy đến từ Khu rừng phù thủy. Luôn được nhìn thấy đang ngủ ngay cả khi chiến đấu, Dorothy được tiết lộ là một người vui vẻ và vui tươi, việc sử dụng Mộng ma pháp cho phép cô đưa đối thủ của mình vào một chiều không gian trong mơ mà cô có thể tự do thao túng. Kirsch Vermillion Lồng tiếng bởi: Daisuke Namikawa   Kirsch Vermillion (キルシュ・ヴァーミリオン, Kirushu Vāmirion) là một quý tộc đến từ Nhà Vermillion, người sử dụng phép thuật Hoa anh đào, Kirsch là anh trai của Mimosa và là phó đội trưởng của đoàn với cấp bậc Kỵ sĩ ma pháp cao cấp hạng nhất. Bất chấp tính tự cao tự đại và nỗi ám ảnh về sắc đẹp, điều mà Mimosa ghét ở anh ta vì anh coi thường mọi người theo bề ngoài, Kirsch là một nhà lãnh đạo có năng lực vì mình anh xử lý hầu hết các công việc của đoàn thay cho Dorothy. Sau Kỳ thi tuyển chọn Kỵ sĩ Hoàng gia, Kirsch đã thay đổi quan điểm ban đầu của mình về thường dân sau trận đấu với Asta. Anh được nhận vào Kỵ sĩ Hoàng gia và giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại các yêu tinh tái sinh. Ngôi đền dưới đáy biển Là một khu vực dưới đại dương, trong một vùng ma thuật mạnh mẽ, nơi trường lực mana mạnh đến mức các dòng chảy ngăn cản ngay cả những pháp sư cấp cao đi vào. Vì vậy, không có nhiều người đến thăm khu vực này và người dân ở đó rất vui mừng khi được nhìn thấy những con người từ trên mặt nước. Các cư dân có hình dáng như những sinh vật biển. Ngôi đền được cho là cất giữ một trong những viên đá ma thuật đang được Bạch Dạ Ma Nhãn thu thập và Vua pháp sư cử Hắc Bộc Ngưu đoàn đi lấy nó. Gifso Lồng tiếng bởi: Chō Tư tế cao nhất của ngôi đền, Gifso (ジフソ, Jifuso) là một ông già thích trò chơi. Khi Hắc Bộc Ngưu đoàn đến, ông ta buộc cả đội (trừ Yami, do sức mạnh của anh) chơi một trò chơi với thỏa thuận rằng ông ta sẽ đưa cho họ viên đá nếu họ thắng nó. Ông thậm chí còn dùng trò chơi này như một điều kiện để cho các cháu của mình là Kahono và Kiato lên thăm mặt nước. Ông ta là người sử dụng Ma pháp trò chơi, cho phép mình tạo ra một không gian để chơi các trò chơi lớn với các quy tắc được đặt ra. Tuy nhiên, khi trò chơi đang chuyển động, ngay cả ông ta cũng không thể vào không gian đó hoặc làm gián đoạn trò chơi. Ông ta đưa viên đá ma thuật cho họ sau khi họ đánh bại Vetto. Gio Lồng tiếng bởi: Masayuki Akasaka Con trai của Tư tế, Gio (ジオ, Jio) là người sử dụng phép thuật mạnh nhất trong Ngôi đền dưới nước. Anh ta sử dụng Phép thuật Nước. Trong khi anh phải đối mặt với cả Luck và Magna, trận chiến của họ bị Vetto làm gián đoạn và ngay lập tức bị đánh bại. Kiato Lồng tiếng bởi: Yoshimasa Hosoya   Cháu trai của Tư tế và anh trai của Kahono. Kiato (キアト) là người sử dụng Phép thuật Khiêu vũ, cho phép anh ta sử dụng các đòn tấn công bằng kiếm mạnh mẽ và khiến các chuyển động của mình khó dự đoán bằng các điệu nhảy của mình. Anh ấy có ước mơ được đặt chân lên trên mặt đất để trở thành thần tượng, thành lập bộ đôi Hát/Nhảy với Kahono. Anh đấu tay đôi với Asta, nhưng họ bị gián đoạn bởi cuộc tấn công của Vetto. Anh bị Vetto cắt cụt chân trong cuộc chiến của họ, nhưng sau đó nó được phục hồi nhờ Huyết thuật của Nữ hoàng Phù thủy khi anh ta và Kahono đến thăm Asta và Noelle tại Lễ hội Ngôi sao. Anh phải lòng Noelle sau khi nhìn thấy Phép thuật nước của cô ấy và gọi cô là "Nữ thần biển". Sau đó anh và Kahono đã giúp Noelle lập khế ước với vị thần của Ngôi đền dưới nước để giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại Lucius. Kahono Lồng tiếng bởi: Megumi Han Kahono (カホノ) là cháu gái sôi nổi của Tư tế và em gái của Kiato, sở hữu giác quan thứ sáu cùng với khả năng sử dụng Ma pháp Bài hát của mình cho nhiều mục đích khác nhau bao gồm tấn công, chữa bệnh và đưa người đau khổ vào giấc ngủ. Cô cũng có ước mơ trở thành thần tượng cùng với anh trai mình, tâm sự điều đó với Asta và Noelle đồng thời giúp hai người sau này học cách sử dụng phép thuật của mình một cách hiệu quả. Kahono sau đó đóng vai trò chống lại Hắc Bộc Ngưu trước khi giúp họ chống lại Vetto, kết cục là cổ họng cô bị hắn ta bóp nát, khiến cô không thể sử dụng hết tiềm năng ma pháp của mình. Cổ họng của cô sau đó được chữa lành nhờ Huyết thuật của Nữ hoàng Phù thủy khi cô và Kiato được mời tham dự Lễ hội Ngôi sao. Sau đó cô và Kiato đã giúp Noelle lập khế ước với vị thần của Ngôi đền dưới nước để giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại Lucius. Khu rừng phù thủy Là khu vực trung lập giữa Vương quốc Diamond và Vương quốc Clover, Rừng Phù thủy (魔女の森, Majo no Mori) là nơi sinh sống của một cộng đồng toàn nữ sử dụng ma pháp đặc biệt như lời nguyền và ma thú. Phù thủy được phép đến thăm các vương quốc khác, nhưng chỉ được sống trong rừng, nếu không họ sẽ trở thành tội phạm. Vanessa Enoteca, Dominante Code, Dorothy Unsworth và Catherine đến từ khu rừng, trước khi họ trốn khỏi đất nước với tư cách là những kẻ bỏ trốn. Nữ hoàng phù thủy Lồng tiếng bởi: Ryoko Gi Nữ hoàng Phù thủy (魔女王, Majo-ō) là mẹ của Vanessa và hầu hết cư dân trong rừng, một người theo chủ nghĩa hoàn hảo trong số các phù thủy và coi trọng quyền lực hơn tất cả. Bà có thể mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ra khắp khu rừng để quan sát các sự kiện và máu của bà ấy có thể chữa lành vết thương cho người khác và thao túng họ như những con rối. Cũng có thể thấy trước các sự kiện trong tương lai, Nữ hoàng biết được khả năng thao túng số phận của Vanessa bằng Ma pháp sợi chỉ của mình và bị ám ảnh bởi nó đến mức vô tình khiến con gái mình ghẻ lạnh bằng cách giam giữ cô trong khi buộc Vanessa phải trau dồi ma pháp của mình. Sau khi các Kỵ sĩ Ma pháp vào rừng để nhờ nữ hoàng chữa lành cho Asta khỏi lời nguyền của Vetto, bà ta bắt họ hứa sẽ bảo vệ khu rừng khỏi Vương quốc Diamond và lực lượng của Patry. Tuy nhiên, khi các họ hoàn thành thỏa thuận, bà ấy phản bội họ bằng cách lừa Asta giết bạn bè trái với ý muốn của cậu, muốn sử dụng cậu ta vì sức mạnh Kháng ma pháp của mình. Cuối cùng, bà xem xét lại khi Vanessa đánh thức ma pháp của mình, đưa cho các Kỵ sĩ Ma pháp viên đá ma thuật mà bà ấy sở hữu và cho phép họ rời đi trong khi thỉnh thoảng yêu cầu Vanessa quay lại thăm. Bà thậm chí còn cho Noelle mượn máu để chữa lành vết thương cho Kahono và Kiato. Vương quốc Heart (Trái tim) Vương quốc Heart (ハート王国, Hāto Ōkoku) là một quốc gia ở phía tây Vương quốc Clover, nơi người dân thích nghi với nguồn mana tự nhiên mạnh mẽ của đất nước để tạo ra ma pháp độc đáo và sử dụng hệ thống xếp hạng được gọi là Giai đoạn ma pháp với Giai đoạn 0 ở trên cùng (hạng cao nhất) và Giai đoạn 9 ở phía dưới đáy (hạng thấp nhất). Đất nước này đã phát triển một kỹ thuật ma thuật gọi là Phương pháp Mana (マナメソッド魔言術式, Mana Mesoddo). Kỹ thuật này sử dụng rune được hình thành bằng mana tự nhiên để tạo ra các "mảng", cung cấp hướng dẫn cho các ma pháp, chẳng hạn như "theo đuổi" hoặc "phát triển" hoặc tập trung mana tự nhiên này để tạo ra nguyên tố thực. Ví dụ, Ma pháp Sét trở thành Ma pháp sét thực sự và tạo ra tia sét thực sự. Vương quốc Heart được cai trị và bảo vệ bởi một dòng nữ hoàng sử dụng phép thuật nước và thành lập một hiệp ước với thủy thần Undine (ウンディーネ, Undīne), nữ hoàng hiện tại là Lolopechka (ロロペチカ, Roropechika), người đã gia nhập liên minh với Vương quốc Clover để xâm lược Vương quốc Spade sau khi bị Megicula giáng một lời nguyền sẽ giết cô ấy trong vòng một năm. Lolopechka Lồng tiếng bởi: Yū Serizawa Lolopechka (ロロペチカ, Roropechika) là Nữ hoàng hiện tại của Vương quốc Heart. Thoạt nhìn có vẻ ngoài thông minh, cô ấy là Nữ hoàng có năng lực, mạnh mẽ và có phần toàn trí của Vương quốc. Cô ký hợp đồng với Thủy thần Undine, người chăm sóc Lolopechka về thể chất, tinh thần và tình cảm. Trước phần Vương quốc Spade, cô bị ảnh hưởng bởi lời nguyền Megicula của Vanica Zogratis, và sắp chết một năm kể từ thời điểm Asta và những người khác đến Vương quốc Heart để biết thông tin về Ác quỷ. Lo sợ Vương quốc Spade áp đảo các vương quốc mình, Diamond và Clover, Lolopechka liên minh với Vương quốc Clover để tạo ra một lực lượng đủ mạnh để đánh bại Vương quốc Spade trong thời gian 6 tháng, trước khi sức mạnh của cô suy yếu. Trước trận chiến, cô ấy chỉ định Noelle và Secret vào đội của mình, vì họ và Undine sẽ có đủ khả năng để đối đầu với Vanica. Cô chiến đấu với Vanica với Noelle và Secre nhưng bị bắt và đưa đến Vương quốc Spade. Sau đó cô được giải thoát với sự giúp đỡ của Noelle, Asta, Luck, Gadjah và Nozel. Sau trận chiến ở Vương quốc Spade, cô tiếp tục nhiệm vụ của mình với tư cách là Nữ hoàng của Vương quốc Heart. Gadjah Lồng tiếng bởi: Ryōtarō Okiayu Gadjah (ガジャ, Gaja) là một trong những Người bảo vệ Tinh linh của Vương quốc Heart. Anh ấy sử dụng phép thuật sét và giúp huấn luyện Luck Voltia sử dụng phép thuật sét thực sự. Anh chiến đấu với Hischer và suýt bị giết nhưng được Patry, Rhya, Vetto và Fana cứu. Sau đó anh ấy huấn luyện cùng họ và hỗ trợ trong trận chiến Vương quốc Spade. Vương quốc Spade Một vương quốc nằm ở phía bắc Vương quốc Clover, Vương quốc Spade (スペード王国, Supēdo Ōkoku) là một quốc gia lạnh giá nơi các pháp sư lấy được phép thuật từ lũ quỷ. Ban đầu được cai trị bởi Nhà Grinberryall, Vương quốc Spade được tiếp quản bởi anh chị em nhà Zogratis, những người đã khuất phục quốc gia của họ vì sợ hãi trong khi chinh phục phần lớn Vương quốc Diamond trước khi xâm lược các vương quốc khác. Điều này buộc Vương quốc Clover và Heart phải liên minh để đẩy lùi những kẻ xâm lược và khôi phục ngai vàng cho Ciel Grinberryall. Nhà Grinberryall Loyce Grinberryall Lồng tiếng bởi: Takashi Yoshida Loyce Grinberryall (ロイス・グリンベリオール, Roisu Gurinberiōru) là cựu vương của Vương quốc Spade và là cha của Yuno, bị Hội Hắc Tam sát hại khi họ chiếm lấy vương quốc. Ông ta sở hữu Phép thuật Mặt trời. Ciel Grinberryall Lồng tiếng bởi: Akiha Matsui Ciel Grinberryall (シエル・グリンベリオール, Shieru Gurinberiōru) là nữ hoàng của Vương quốc Spade và là mẹ của Yuno, người đã lẩn trốn sau khi Hắc Tam tiếp quản Vương quốc Spade dưới sự bảo vệ của những công dân trung thành đã thành lập Quân kháng chiến. Cô ấy tái xuất sau khi Hắc Tam bị đánh bại và đoàn tụ với Yuno. Cô sở hữu Phép thuật Mặt trăng. Ralph Niaflem Lồng tiếng bởi: Daisuke Takahashi Ralph Niaflem (ラルフ・ニアフレム, Rarufu Niafuremu) là cựu người hầu của Nhà Grinberryall và là thành viên của Lực lượng kháng chiến chống lại Hắc Tam. Nhân vật phản diện Bạch Dạ Ma Nhãn Bạch Dạ Ma Nhãn (白夜の魔眼, Byakuya no Magan) là nhân vật phản diện chính của phần đầu, một nhóm pháp sư có ý định tiêu diệt Vương quốc Clover, đóng tại một ngục tối nổi trong Vùng đá Gravito. Trên thực tế, do sức mạnh phép thuật của họ, những thành viên mạnh hơn là những người bị linh hồn của Chủng tộc Yêu tinh (エルフ族, Erufu-zoku) chiếm hữu. Ban đầu có trụ sở tại Vùng bị bỏ rơi của Vương quốc Clover cách đây 5 thế kỷ, Yêu tinh là nạn nhân của một âm mưu do ác quỷ Zagred tiến hành, kẻ đã thao túng các hoàng gia ghen tị của Vương quốc Clover cổ đại tàn sát họ để lấy mana để hắn có thể chiếm hữu thủ lĩnh Licht của họ. Mặc dù Licht và Lumiere đã ngăn cản âm mưu của Zagred, Zagred đã thao túng linh hồn của yêu tinh để tái sinh vào 5 thế kỷ sau trong kim khí của con người. Chỉ mình Patry, một trong mười pháp sư Elf mạnh mẽ được biết đến với cái tên Tông đồ của Sephirah, được tái sinh hoàn toàn khi anh ta giả danh Licht và thành lập Bạch Dạ Ma Nhãn để thu thập những viên đá ma thuật của yêu tinh đặt trong một phiến đá sephirah để cầu khẩn một nghi lễ mà anh sử dụng và hồi sinh người dân của mình bằng cách biến cơ thể tái sinh của họ thành "Dạng thật" (真 の 姿, Shin no Sugata), giúp họ có thể trả thù Vương quốc Clover. Các thành viên con người phần lớn bị Patry lừa gia nhập tổ chức với giả định rằng họ cũng là yêu tinh tái sinh và được đặt Tên thật (真の名, Makoto no Na), mà không biết rằng tổ chức này coi họ là vật hiến tế để kích hoạt nghi lễ, giết chết tất cả, trong khi Rades hồi sinh chính mình, Sally và Valtos ngay sau đó. Sau khi nghi lễ kết thúc, Patry cùng với những người anh em yêu tinh của mình và hầu hết các Tông đồ, bao gồm chính anh ta, Tam Nhãn, Licht, Ronne, Drowa, Reve và Lira, và tiến hành giai đoạn cuối bằng cách có được Đá Phép Thuật cuối cùng bên trong Cung điện Bóng tối (ở dưới cung điện của thủ đô Vương quốc Clover). Tại Cung điện Bóng tối, ranh giới giữa thế giới người sống và thế giới ngầm, họ có thể khiến yêu tinh tái sinh vĩnh viễn. Yêu tinh biết quá muộn về sự thật về cái chết và sự hồi sinh của họ bởi Zagred, người có phép thuật tái sinh cũng khiến họ có trái tim độc ác (邪心, jashin) khiến họ khuếch đại những cảm xúc tiêu cực. Một yêu tinh hoàn toàn bị tiêu diệt bởi trái tim độc ác của mình sẽ bị biến thành Dark Elf (ダークエルフ, Dāku Erufu), mất hết khả năng tự chủ và ý thức, đồng thời sử dụng mana tiêu cực để gây ra sự hủy diệt mù quáng. Sau khi Zagred bị đánh bại, các Kỵ sĩ Ma pháp và các thành viên Bạch Dạ Ma Nhãn đã được cải tổ sẽ cố gắng trấn an các yêu tinh khác để họ được phép yên nghỉ. Patry Lồng tiếng bởi: Takahiro Sakurai, Shouko Yuzuki (Cơ thể thật) Patry (パトリ, Patori ) là thủ lĩnh của Bạch Dạ Ma Nhãn và các yêu tinh hình thành nên Tông đồ của Sephira, đã đặt câu hỏi về lý do Licht tin tưởng con người trước khi người dân của họ bị tàn sát. Ban đầu là một đứa trẻ ở kiếp trước, Patry được Zagred tái sinh trong cơ thể của William Vangeance và phát triển một tình bạn cộng sinh với con người khi anh sử dụng sự giống nhau của William với Licht để nhận danh tính của thủ lĩnh đồng thời thành lập Bạch Dạ Ma Nhãn để hồi sinh đồng bào yêu tinh. Vì Patry không thể sử dụng ma đạo thư của William nên anh ta đã có được một cuốn ma đạo thư cỏ bốn lá để sử dụng Ma pháp Ánh sáng của mình cho cả tấn công và chữa bệnh. Trong khi Patry ghét con người, bao gồm cả những cấp dưới cuồng tín của con người mà anh chỉ bảo vệ để phục vụ trong kế hoạch của mình, anh lại bày tỏ sự ghê tởm mạnh mẽ hơn đối với Asta vì sở hữu ma đạo thư và vũ khí của Licht. Heath Grice Lồng tiếng bởi: Ryotaro Okiayu Heath Grice (ヒース・グライス, Hīsu Guraisu) là một pháp sư bị ám ảnh bởi thời gian và sử dụng phép thuật băng. Heath và các đệ tử của mình đã tấn công một ngôi làng ở vùng Forsaken của Vương quốc Clover để lấy viên đá ma thuật nằm ở đó. Heath cuối cùng bị đánh bại bởi Asta, Noelle Silva và Magna Swing, trong khi một trong những đệ tử của hắn ta trốn thoát để báo cáo diễn biến sự việc cho Patry. Heath đã sử dụng một di vật để thực hiện một câu thần chú giết chết chính mình và hai đệ tử của mình nhằm ngăn chặn việc tiết lộ kế hoạch của họ cùng với sự tồn tại của Bạch Dạ Ma Nhãn trong quá trình thẩm vấn của họ. Lucius sau đó sử dụng phép thuật của anh chị em mình để hồi sinh Heath nhiều năm sau cái chết của hắn, thay đổi linh hồn của hắn ta để phục vụ anh ta như một Kỵ sĩ. Valtos Lồng tiếng bởi: Daiki Hamano Valtos (ヴァルトス, Varutosu) là một pháp sư lừa đảo sử dụng Ma thuật không gian để di chuyển khoảng cách. Hắn ta hỗ trợ nhóm tấn công Thủ đô Hoàng gia và đóng một vai trò trong việc gây ra vết thương chí mạng cho Fuegoleon. Hắn giúp chiến đấu với Julius nhưng bị bắt và được Patry cứu. Trong phần Làng Nean, hắn đưa Patry đến hang động, nơi hắn giúp anh chiến đấu với Asta và Yami nhưng bị Asta đánh bại. Sau đó hắn ta được giải cứu bởi Tam Nhãn. Valtos sau đó tham gia cuộc tấn công vào căn cứ của Hắc Bộc Ngưu để lấy viên đá ma thuật trước Patry, nhưng rồi bị hy sinh, trước sự bàng hoàng, để lấy mana của hắn. Valtos, vỡ mộng vì bị phản bội, được Rades hồi sinh, và họ cùng với Sally hợp lực với Hắc Bộc Ngưu để ngăn chặn Patry. Sau đó, hắn đã lấy lại được sự tôn trọng của mình đối với yêu tinh khi hắn ta chuộc lỗi. Rades Spirito Lồng tiếng bởi: Masayuki Akasaka   Rades Spirito (ラデス・スピーリト, Radesu Supīrito) là một pháp sư gọi hồn, người có thể làm sống động các xác chết thông qua Ma thuật Wraith của mình. Cuốn ma đạo thư của hắn ta chỉ có một trang nhưng cho phép mình biến xác chết thành những người thực thi cá nhân của mình, những người có thể sử dụng các thuộc tính ma thuật mà họ đã sử dụng trong cuộc sống. Rades là một thường dân đã gia nhập Tử Kình đoàn trước khi bị Vương quốc Clover lưu đày vì sợ phép thuật của mình. Hắn ta sau cùng tham gia cùng Bạch Dạ Ma Nhãn tấn công Thủ đô Hoàng gia và đóng một vai trò trong việc gây ra vết thương chí mạng cho Fuegoleon. Sally Lồng tiếng bởi: Minami Tsuda Sally (サリー, Sarī ) là một pháp sư lừa đảo sử dụng Ma pháp Gel để tạo ra và điều khiển các chất sền sệt. Cô có nỗi ám ảnh về việc thu thập bất cứ thứ gì cực kỳ kỳ quái để nghiên cứu và giải phẫu, bao gồm cả Asta. Cô cũng sở hữu nhiều công cụ ma thuật cho phép cô tăng cường phép thuật của mình hoặc của người khác với những hậu quả tiềm ẩn, đồng thời cô nghiên cứu tạo ra cơ thể nhân tạo mà Rhya dùng để cung cấp cho Vetto và Fana các kim khí thay thế. Cô tham gia vào cuộc xâm lược thủ đô hoàng gia, bắt giữ Asta vì ma pháp kháng của cậu ta. Cô giúp chiến đấu với Julius nhưng bị bắt sau đó được Patry cứu. Catherine Lồng tiếng bởi: Kimiko Jitsukawa Catherine (キャサリンス, Kyasarin) là một phù thủy lừa đảo hoàn toàn vô ích và sử dụng Phép thuật tro của mình để tiêu hao năng lượng của người khác nhằm duy trì vẻ đẹp trẻ trung của mình, khiến bản thân trở thành cấp dưới lớn tuổi nhất của Patry. Catherine xuất hiện ở Thủ đô Hoàng gia trong cuộc tấn công của nhóm cô, tấn công người dân trước khi bị chặn lại bởi Yuno, người buộc cô phải cạn kiệt toàn bộ mana để chống chọi với đòn tấn công của anh ta và sau đó bị đánh gục bởi Charmy, người đã hiểu nhầm nhu cầu ăn cô của Catherine mana để khôi phục lại tuổi trẻ của mình như một nỗ lực để ăn trộm thức ăn của cô ấy. Catherine sau đó bị giam giữ cùng với một thành viên khác tên là Geork, bùa chú đặt vào tâm trí họ để ngăn họ tiết lộ thông tin do Asta phá vỡ khi họ buộc phải tiết lộ vai trò của Gueldre trong cuộc tấn công vào Thủ đô. Sau đó cô ấy chết do nghi lễ của Patry. Tam Nhãn Mặc dù ban đầu được giới thiệu là thành viên mạnh nhất của Bạch Dạ, nhưng họ được tiết lộ là con người bị chiếm hữu bởi ba thành viên của Tông đồ Sephira. Tiêu đề của họ đóng vai trò là hiện thân của những đặc điểm đối lập được mô tả trên huy hiệu cỏ ba lá của Vương quốc Clover: niềm tin, hy vọng và tình yêu. Khi thủ lĩnh Patry của họ bắt đầu kế hoạch hồi sinh người thân của họ, các thành viên Tam Nhãn sẽ thay thế họ cùng với các Tông đồ khác để hoàn thành câu thần chú. Sau khi đánh bại con quỷ thao túng con người của họ, Tam Nhãn vẫn ở lại giữa những người sống trong khi thân nhân của họ sang thế giới bên kia vì cơ thể họ đang sử dụng vào thời điểm đó vốn vô hồn. Họ quyết định dành thời gian còn lại trong cuộc đời để chuộc lỗi cho hành động của mình. Rhya (ライア, Raia) Lồng tiếng bởi: Hirofumi Arai  (tập 35–39), Masakazu Morita Một Sứ đồ Yêu tinh được mệnh danh là Kẻ không trung thành (不実, Fujitsu), người có thể cảm nhận được mọi hình thức lừa dối, ủng hộ kế hoạch của Patry mặc dù biết rằng câu chuyện về sự tàn sát của họ bởi con người còn nhiều điều hơn là cách nó xuất hiện. Ma pháp sao chép của anh cho phép mình sao chép bất kỳ loại ma pháp nào và mang hình dáng của người khác. Vetto (ヴェット) Lồng tiếng bởi: Masaya Takatsuka Một Tông đồ Yêu tinh được mệnh danh là Tuyệt vọng (絶望, Zetsubō), Vetto là một trong những người bạn lâu đời nhất của Licht và chia sẻ ước mơ hòa bình cho đến khi em gái anh và ngôi làng của họ bị tàn sát bởi tổ tiên của cư dân hiện tại của Vương quốc Clover, dẫn đến một Vetto tái sinh trở thành một kẻ tâm thần tàn bạo có ý định khiến con người đau khổ như người dân của hắn. Mặc dù ban đầu có thể sử dụng khả năng Ma pháp quái thú hiếm có của mình để tăng cường sức mạnh thể chất đồng thời tạo ra hào quang hình động vật, nhưng hắn ta có thể nâng cấp nó thành Ma pháp quái thú thần thoại bằng cách biểu hiện con mắt thứ ba. Điều này làm tăng sức mạnh của hắn và cho phép mình tái tạo các chi bị cắt đứt đồng thời biến hắn ta thành một con quái vật và nguyền rủa mọi người. Fana (ファナ) Lồng tiếng bởi: MAO Là một Tông đồ Yêu tinh được mệnh danh là Hiềm kỵ (憎悪, Zōo), Fana ban đầu tái sinh thành một cô gái cùng tên. (Con người) Fana là cư dân của Vương quốc Diamond và là bạn thời thơ ấu của Mars khi họ đang bị thí nghiệm, suýt tự sát khi buộc Mars phải tấn công cô để giành tự do cho anh ta. Trong khi Mars cho rằng anh đã giết cô ấy, Fana lại phải chịu thêm thử nghiệm bí mật trong khi Ma pháp Hỏa của cô được tăng cường bằng Pha lê do các trang trong cuốn Grimoire của Mars được ghép vào cuốn sách của cô. Fana (con người) đã bị Patry loại bỏ và tìm thấy, đánh thức Fana, người đã lật đổ vật chủ của cô ấy trong khi có được ma pháp của đối tác con người và Thần lửa, Salamander. Vương quốc Diamond (kim cương) Một vương quốc đối thủ ở phía đông Vương quốc Clover, Vương quốc Kim cương (ダイヤモンド王国, Daiyamondo Ōkoku) là vùng đất được cai trị bởi Học giả Phép thuật chuyên chế tên là Morris, người điều khiển nhà vua và tiến hành các thí nghiệm trên trẻ em như Mars để tạo ra binh lính và củng cố quân đội của đất nước mình. Những nhân vật mạnh nhất trong quân đội của Vương quốc Kim cương được gọi là Tám vị tướng sáng ngời (八輝将, Hakkishō), được coi là có quyền lực ngang bằng với các đội trưởng Hiệp sĩ Phép thuật của Vương quốc Clover. Trong khi việc mở rộng lãnh thổ khiến nó trở nên bất hòa với Vương quốc Clover, Vương quốc Diamond cuối cùng lại bị Vương quốc Spade chinh phục. Morris Libardirt Lồng tiếng bởi: Akasaka Masayuki Morris Libardirt (モリス・リバルダート, Morisu Ribarudāto) là một Học giả Phép thuật bị mù bẩm sinh do trở thành vật chủ của Ác quỷ, Phép thuật Biến đổi của anh ta cho phép anh ta thay đổi cấu trúc của các vật thể vật lý và ma thuật. Morris sử dụng vị trí của mình để điều khiển vị vua của Vương quốc Kim cương, dàn dựng nhiều thí nghiệm trên trẻ em để củng cố sức mạnh của các hiệp sĩ ma thuật của vương quốc đồng thời loại bỏ những người không đáp ứng được mong đợi của ông. Sau cuộc xâm lược thất bại của Kiten, Morris cử Mars và Ladros đến Khu rừng phù thủy để bắt cóc Nữ hoàng phù thủy để anh có thể tìm hiểu bí mật về tuổi thọ của bà. Lotus Whomalt Lồng tiếng bởi: Kenyuu Horiuchi   Lotus Whomalt (ロータス・フーモルト, Rōtasu Fūmoruto) là một pháp sư danh tiếng đến từ Vương quốc Diamond, người nổi tiếng với biệt danh Hoa sen của Vực thẳm (奈落のロータス, Naraku no Rōtasu), sử dụng Ma pháp Khói và nhiều chiến thuật ngầm khác như khí độc trong một trận chiến. Trước các sự kiện của bộ truyện, Lotus đã chạm trán với Julius Novachrono và Yami Sukehiro, người sau này có một vết sẹo ở ngực. Khi đối mặt với Luck trong nhiệm vụ điều tra một hầm ngục dọc theo Mars, Lotus đã cố gắng bảo đảm một lượng kho báu khổng lồ cho Vương quốc của mình. Trong arc Kiten, hắn ta cố gắng tấn công William nhưng bị Yami ngăn lại và rút lui. Lotus sau đó buộc phải liên kết với Vương quốc Spade sau khi Morris bị lưu đày, chỉ quay lưng lại với Morris sau khi hắn ta lập một hiệp ước với Lucifero. Mars Lồng tiếng bởi: Yuichiro Umehara   Mars (マルス, Marusu) là một trong Tám vị tướng Ánh sáng của Vương quốc, Mars được nuôi dưỡng như một vũ khí cùng với Fana khi cả hai được Morris thử nghiệm cùng với nhiều người khác. Mars bị tổn thương về mặt cảm xúc khi bị Fana buộc phải giết cô để lấy tự do cho anh, đồng thời giành được quyền điều khiển vào Ma pháp Lửa của cô cùng với Ma pháp Pha lê tự nhiên của anh sau khi các trang ma đạo thư của họ bị xé toạc và ghép vào nhau. Nhưng khi anh ta có được kho báu của ngục tối trước Vương quốc Clover, Mars đã chiến đấu với Asta và kết quả là tình bạn đã thuyết phục anh ta thay đổi cấu trúc bên trong của Vương quốc để tốt hơn. Mars sau đó đóng vai trò cứu Fana khi biết về sự sống sót của cô và bị yêu tinh chiếm hữu sau khi Morris vứt bỏ cô, sử dụng lọ máu của Nữ hoàng Phù thủy để đặt vua của Vương quốc Diamond dưới sự kiểm soát của anh ta và đuổi Morris khỏi quê hương của họ. Ladros Lồng tiếng bởi: Takeshi Kusao   Ladros (ラドロス, Radorosu) là một trong Tám vị tướng Ánh sáng của Vương quốc và là cựu học trò của Fanzell, sinh ra với khả năng sử dụng ma pháp nhưng lại thiếu thuộc tính để tạo hình dạng so với những người khác. Điều này khiến anh trở nên phức tạp hơn sau khi cuộc phẫu thuật tái tạo bắt buộc mang lại cho anh khả năng hấp thụ và phát ra mana, với ý định sử dụng mọi người để thăng cấp và loại bỏ các mối đe dọa tiềm tàng như Mars. Sau cuộc tấn công vào Khu rừng phù thủy, Ladros lật lại một trang mới sau khi bị Asta đánh bại và đề nghị hỗ trợ Mars trong kế hoạch thay đổi cấu trúc bên trong của Vương quốc theo hướng tốt đẹp hơn. Broccos Lồng tiếng bởi: Ray Hurd Broccos (ブロッコス, Burokkosu) là một trong Tám vị tướng Ánh sáng của Vương quốc, người sử dụng phép thuật để điều khiển đất son đỏ làm vũ khí. Hắn ta rất thiếu kiên nhẫn, tức giận và thích chiến đấu một cách liều lĩnh và thẳng thắn, mặc dù hắn tỏ ra là người bảo vệ những người dưới quyền của mình. Trong cuộc tấn công vào Kiten, hắn ta cố gắng đấu tay đôi với Đội trưởng William Vangeance nhưng dễ dàng bị đánh bại và bất động. Hắn được Lotus Whomalt cứu khi Vương quốc Diamond rút lui. Ragus Lồng tiếng bởi: Wataru Tsuyuzaki Ragus (ラガス, Ragusu) là một trong Tám vị tướng Ánh sáng của Vương quốc sử dụng Ma pháp Sấm sét. Trong cuộc tấn công vào Kiten, hắn đã thành công trong việc xuyên thủng tấm khiên ma thuật bao quanh thành phố bằng những mũi tên sét cực mạnh. Hán ta bị đâm bởi cây đinh ba gió của Yuno và ném hắn ta vào một tòa nhà. Yagos Lồng tiếng bởi: Genki Muro Yagos (ヤーゴス, Yāgosu) là một trong Tám vị tướng Ánh sáng của Vương quốc, người sử dụng Phép thuật Mucus cho phép hắn ta hút mana từ đối thủ của mình. Hắn ta nằm trong số những vị tướng được cử đi tấn công Kiten trước khi bị mất cánh tay phải vào tay Langris Vaude và bị Hắc Bộc Ngưu đoàn bắt giữ. Hắc Tam Vương Hắc Tam (漆黒の三極性(ダークトライアド), Dāku Toraiado) là những nhân vật phản diện chính của phần thứ hai. Chúng là một nhóm gồm ba pháp sư anh chị em thuộc gia đình Zogratis, những người đã lật đổ Nhà Grinberryall và khuất phục Vương quốc Spade vì sợ hãi trong khi chinh phục phần lớn Vương quốc Diamond trước khi xâm lược các vương quốc khác. Điều này buộc Vương quốc Clover và Heart phải liên minh để đẩy lùi quân xâm lược và tiêu diệt Megicula. Một trong những mục tiêu của nhóm là tạo ra Cây của Qliphoth (クリフォトの樹, Kurifoto No Ki), một kênh ma thuật kết nối với thế giới ngầm và nhân gian cho phép ác quỷ xâm nhập vào thế giới con người. Cái cây cần có Phép thuật Cây Thế giới và Phép thuật Hắc ám để phát triển, với Hắc Tam nhắm mục tiêu vào William và Yami vì mục đích đó. Cấp dưới trực tiếp của họ là Đệ tử Hắc Tam (漆黒の使徒ダークディサイプル, Dāku Disaipuru) , những người có thể tiếp cận một phần sức mạnh đáng kể của ác quỷ. Sau thất bại của chúng, người ta tiết lộ rằng anh trai của họ là Lucius đã thâm nhập vào Vương quốc Clover nhiều năm trước. Lấy lại cơ thể và cuốn ma đạo thư của họ, Lucius sử dụng thuộc tính ma thuật kết hợp của anh chị em mình để tái tạo cơ thể của Moris. Dante Zogratis (ダ ン テ・ゾグラティス, Dante Zoguratisu) Lồng tiếng bởi: Rikiya Koyama   Thủ lĩnh của Hắc Tam và là vật chủ của ác quỷ Lucifero. Hắn ta có khả năng sử dụng cả Ma thuật trọng lực của Lucifero, cho phép anh ta điều khiển trọng lực của bản thân, người khác và các vật thể khác, cũng như Ma thuật cơ thể của chính mình, cho phép anh ta điều khiển các mô và chức năng của cơ thể mình để chữa lành và trải qua những biến đổi quái dị. Anh ta là một kẻ sát nhân kiêu ngạo, tin rằng cái ác là bản chất thực sự của loài người, dẫn đầu cuộc đảo chính ở Vương quốc Spade vì cảm thấy không hài lòng với những thành tích trong quá khứ của mình với tư cách là một người lính. Zenon Zogratis (ゼノン・ゾグラティス, Zenon Zoguratisu) Lồng tiếng bởi: Tatsuhisa Suzuki  (tiếng Nhật); Zeno Robinson  (tiếng Anh) Là thành viên của Bộ ba bóng tối với dấu thánh giá ở bên trái trán, đồng thời là vật chủ của ác quỷ Beelzebub, lượng mana khổng lồ cho phép anh ta một mình khuất phục Vương quốc Kim cương. Anh ta có khả năng sử dụng Phép thuật không gian của Beelzebub, cho phép anh ta tạo ra các cổng và không gian điều khiển mana, và Phép thuật Xương của riêng mình, cho phép anh ta thao tác và tạo ra xương. Là con út trong số anh chị em nhà Zogratis, Zenon ban đầu tốt bụng và không quan tâm đến việc trở thành Vật chủ Quỷ cho đến khi anh buộc phải giết người bạn thời thơ ấu và đối thủ của mình là Allen để ngăn chặn một con quỷ mà họ gặp phải trong ngục tối với tư cách là thành viên của Lực lượng Phòng vệ Pháp sư. Thử thách đau thương khiến Zenon trở nên lạnh lùng và hoài nghi khi anh coi cảm xúc là vô nghĩa, chỉ thể hiện niềm vui tàn bạo khi hạ gục đối thủ một cách không thương tiếc. Zenon sau đó dẫn đầu cuộc tấn công vào căn cứ Golden Dawn cùng với hai đệ tử của mình để bắt William vì mục tiêu của nhóm anh ta là sử dụng Phép thuật Cây Thế giới của William trong việc tạo ra Cây Qliphoth, dễ dàng đánh bại Yuno và một số lượng lớn thành viên trong quá trình này, giết chết một nửa của họ. Anh ta dịch chuyển đến Dante sau khi anh ta bị Asta đánh bại, nơi anh ta bắt được Yami và rời đi cùng với cả anh ta và William cũng như người anh trai bất tỉnh Dante của anh ta thông qua một cánh cổng quay trở lại Vương quốc Spade. Trong khi đối mặt với Yuno khi cánh cổng đầu tiên dẫn đến thế giới ngầm mở ra, Zenon đã hy sinh nhân tính của mình cho Beelzebub để lấy trái tim của Ác quỷ sau khi bị bùa chú Spirit of Euros của Yuno xuyên qua. Zenon áp đảo Yuno trước khi anh có được cuốn ma đạo thư thứ hai và phá hủy trái tim quỷ của anh. Khi chết, anh nhận ra những điểm tương đồng giữa Yuno và mình cũng như con đường của họ khác nhau như thế nào. Vanica Zogratis (ヴ ァ ニ カ・ゾグラティス, Vanika Zoguratisu ) Lồng tiếng bởi: Yui Ogura  (tiếng Nhật); Lindsay Seidel (tiếng Anh) Một thành viên của Bộ ba bóng tối đeo băng bịt mắt có phù hiệu của Vương quốc Spade và là vật chủ của ác quỷ Megicula, kẻ mà cô đã sử dụng sức mạnh để giết Acier, mẹ của Noelle và sau đó đặt lời nguyền chết người lên Lolopechka. Cô có khả năng sử dụng cả Ma thuật chống lời nguyền của Megicula, cho phép cô thực hiện những lời nguyền mạnh mẽ với nhiều hiệu ứng khác nhau, và Ma thuật máu của riêng mình, cho phép cô tạo và điều khiển máu. Cô ấy nhiệt tình và theo chủ nghĩa khoái lạc, tìm cách chiến đấu với những đối thủ mạnh mẽ và thả ác quỷ vào thế giới loài người để hưởng thụ. Vanica tấn công Vương quốc Trái tim cùng với năm đệ tử của mình để xúi giục Lolopechka tham gia một trận tử chiến, với bốn đệ tử của cô đánh bại bốn Người bảo vệ Tinh linh, những pháp sư mạnh nhất ở Vương quốc Trái tim, trong khi cô chia đôi quyền kiểm soát cơ thể của mình với Megicula để đánh bại Lolopechka , Noelle và Bí mật. Cô ấy bị Noelle hấp dẫn và bắt cóc Lolopechka thay vì giết cô ấy, để kích động Noelle mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến tiếp theo của họ, nơi cô ấy có thể sử dụng toàn bộ sức mạnh của Megicula. Mặc dù chấp nhận cái chết dưới tay Noelle sau khi bị đánh bại, Vanica lại thấy mình bị đặt dưới sự kiểm soát của Megicula khi ác quỷ tiết lộ ý định hy sinh vật chủ của mình để lộ diện hoàn toàn. Tuy nhiên, Megicula đã bị giết trước khi lễ hiến tế hoàn thành, còn Vanica thì lại ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Đệ tử Hắc Tam Gaderois Godroc (ガデロア・ゴドロック, Gaderoa Godorokku ) Lồng tiếng bởi: Michitake Kikuchi (tiếng Nhật); Jarrod Greene (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Hắc ám đồng hành cùng Zenon trong cuộc tấn công vào căn cứ Golden Dawn. Anh ta sử dụng Stone Magic, thứ mà anh ta sử dụng để tạo ra những nắm đấm bằng đá. Do sức mạnh của con quỷ, viên đá của anh ta cứng hơn sắt hoặc thép và có thể chống lại nhiều đòn tấn công đồng thời mà không bị sát thương. Anh ta bị Yuno đánh bại sau một trận chiến cam go. Migusteau Foyal (フォヤル・ミグストー, Foyaru Migusutō ) Lồng tiếng bởi: Wataru Tsuyuzaki (tiếng Nhật); Brent Mukai (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Hắc ám đồng hành cùng Zenon trong cuộc tấn công vào căn cứ Golden Dawn. Anh ta sử dụng Ma thuật sương mù, thứ mà anh ta sử dụng để tạo ra ảo ảnh về bản thân nhằm khiến đối thủ bối rối. Nhờ sức mạnh của con quỷ, anh ta có thể ngưng tụ sương mù của mình thành những tia nước đủ mạnh để phá hủy thép. Anh ta bị Klaus đánh bại với sự giúp đỡ của Letoile Becquerel. Svenkin Gatard (スヴェンキン・ガタード, Suvenkin Gatādo ) Lồng tiếng bởi: Bill Butts (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Hắc ám đồng hành cùng Vanica trong cuộc tấn công vào Vương quốc Trái tim. Anh ta sử dụng Skin Magic, thứ mà anh ta sử dụng để điều khiển làn da của mình và các đặc tính của nó. Nhờ sức mạnh của Megicula, làn da của anh ấy có thể vô hiệu hóa các đòn tấn công ma thuật bằng cách trở nên mềm hơn hoặc cứng hơn. Anh chiến đấu với Luck, và sau đó bị giết khi Vanica cho nổ sức mạnh ma quỷ mà cô đã truyền cho các đệ tử của mình, biến họ thành những quả bom như một cuộc tấn công cuối cùng vào Vương quốc Trái tim. Sivoir Snyle (シーヴワル・スナイル, Shīvuwaru Sunairu ) Lồng tiếng bởi: Makoto Sahara (tiếng Nhật); Anthony DiMascio (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Hắc ám đồng hành cùng Vanica trong cuộc tấn công vào Vương quốc Trái tim. Anh ta sử dụng Phép thuật Nhãn cầu, thứ mà anh ta sử dụng để tạo và điều khiển nhãn cầu nhằm phát hiện sức mạnh, sức chịu đựng, phép thuật và chuyển động của con người. Nhờ sức mạnh của Megicula, anh ta có thể sử dụng thông tin này để dự đoán bước đi tiếp theo của đối thủ và bắn tỉa họ bằng một viên đạn ma thuật từ xa. Anh chiến đấu với Leopold, và sau đó bị giết khi Vanica cho nổ sức mạnh ma quỷ mà cô đã truyền cho các đệ tử của mình, biến họ thành những quả bom như một cuộc tấn công cuối cùng vào Vương quốc Trái tim. Halbet Chevour (ハールベート・シュヴール, Hārubēto Shuvūru) Lồng tiếng bởi: Miyuki Satou (tiếng Nhật); Elizabeth Maxwell (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Hắc ám đồng hành cùng Vanica trong cuộc tấn công vào Vương quốc Trái tim. Cô ấy sử dụng Hair Magic để mọc và kiểm soát tóc của mình. Nhờ sức mạnh của Megicula, mái tóc của cô ấy cứng cáp, dài vô tận và có thể cử động tự do. Cô chiến đấu với Charmy, và sau đó bị giết khi Vanica cho nổ sức mạnh ma quỷ mà cô đã truyền cho các đệ tử của mình, biến họ thành những quả bom như một cuộc tấn công cuối cùng vào Vương quốc Trái tim. Hischer Ongg (ヒッシャー・オング, Hisshā Ongu) Lồng tiếng bởi: Kevin D. Thelwell (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Bóng tối đồng hành cùng Vanica trong cuộc tấn công Vương quốc Trái tim. Anh ta sử dụng Nail Magic để kéo dài và mài móng tay của mình. Nhờ sức mạnh của Megicula, móng tay của anh ấy thậm chí còn có thể dài hơn và trở nên sắc như dao găm. Anh chiến đấu với Gadjah, và sau đó bị giết khi Vanica cho nổ sức mạnh ma quỷ mà cô đã truyền cho các đệ tử của mình, biến họ thành những quả bom như một cuộc tấn công cuối cùng vào Vương quốc Trái tim. Robero Ringert (ロベロ・リンゲルト, Robero Ringeruto) Lồng tiếng bởi: Wataru Tsuyuzaki (tiếng Nhật); Jeremy Inman (tiếng Anh) Một trong những Đệ tử Bóng tối đồng hành cùng Vanica trong cuộc tấn công Vương quốc Trái tim. Anh ta sử dụng Phép thuật Lưỡi, thứ mà anh ta sử dụng để phóng to và làm cứng lưỡi của mình. Nhờ sức mạnh của Megicula, lưỡi của anh ta có thể to ra, dài ra và cứng vô cùng. Anh chiến đấu với Mimosa, và sau đó bị giết khi Vanica cho nổ sức mạnh ma quỷ mà cô đã truyền cho các đệ tử của mình, biến họ thành những quả bom như một cuộc tấn công cuối cùng vào Vương quốc Trái tim. Lucius Zogratis Lucius Zogratis (ルシウス・ゾグラティス, Rushiusu Zoguratisu) là nhân vật phản diện chính ẩn giấu của bộ truyện, đã dàn dựng hầu hết các sự kiện đằng sau hậu trường cho đến khi lộ diện ở phần cuối cùng. Hắn là anh cả của Hắc Tam, một pháp sư được sinh ra với hai linh hồn và linh hồn còn lại là Julius Novachrono. Hắn ta có liên kết với Astaroth, ác quỷ của Ma phá Thời gian, trong khi ma thuật bẩm sinh của hắn ta, Ma pháp Linh hồn, cho phép mình thay đổi bản chất linh hồn của một người thông qua sự đụng chạm giống như biến linh hồn của Ác quỷ thành một linh hồn được thanh lọc. Là một kẻ cuồng tín tin rằng mình là vị cứu tinh, Lucius đã hy sinh anh chị em của mình để đạt được mục tiêu hóa thân những con quỷ đã được thanh lọc thành con người để tạo ra một chủng tộc bất tử mới gọi là Paladins (聖騎士, Paradin) và trở thành Vua pháp sư cuối cùng của một thế giới không tưởng. Ác quỷ Quỷ tộc (悪魔族, Akuma Zoku), hay ác quỷ, là những sinh vật quái dị đến từ Địa ngục (冥府, Meifu), thú vui duy nhất của chúng là hành hạ lẫn nhau và các chủng tộc khác từ thế giới con người. Ác quỷ có xu hướng xuất hiện trong thế giới con người trong những trường hợp kỳ lạ, thường bằng cách lập hiệp ước với các pháp sư trở thành vật chủ của Ác quỷ (悪魔憑き, Akumatsuki) mặc dù đó là những dịp mà chúng có thể mang cơ thể của mình đến thế giới con người. Zagred (ザグレド, Zaguredo) Lồng tiếng bởi: Showtaro Morikubo Con quỷ đầu tiên mà Asta chạm trán, Zagred sở hữu Ma pháp tiếng linh hồn, cho phép anh ta thao túng bản thân và môi trường xung quanh thông qua lời nói, và Ma thuật tái sinh, cho phép anh ta điều khiển một linh hồn sắp chết và đặt nó vào một cơ thể khác. Sau khi vứt bỏ cơ thể của mình để bước vào cõi phàm trần với tư cách là một linh hồn chiếm hữu cơ thể, Zagred chủ mưu vụ diệt chủng Yêu tinh cách đây 5 thế kỷ trong một kế hoạch chiếm hữu cơ thể của Licht và sử dụng cuốn ma đạo thư năm lá của yêu tinh. Bất chấp nỗ lực hy sinh của Licht để ngăn chặn điều đó, với việc Secre phong ấn anh ta khỏi thế giới của người sống, anh ta đảm bảo rằng các yêu tinh sẽ tái sinh vào 5 thế kỷ sau. Trong khi Patry có ý định làm cho yêu tinh tái sinh vĩnh viễn, Zagred đã thao túng Patry đưa cơ thể của anh ta đến thế giới sống. Zagred lấy lại cơ thể và tra tấn tâm lý Patry để biến anh ta thành Dark Elf, lấy cuốn ma đạo thư năm lá mới biến đổi của Patry cho riêng mình. Anh chiến đấu với Asta, Yuno, Yami, Charla và Patry, Licht, Lumiere và Secre đã được phục hồi, và cuối cùng bị tiêu diệt bởi Asta, kẻ đã cắt trái tim anh làm đôi. Anh ta bị Liebe chế nhạo trước khi tan rã. Lucifero (ルチフェロ, Ruchifero) Lồng tiếng bởi: Jeremy Schwartz Vua quỷ sinh sống tại Vương quốc Spade trong cơ thể của thủ lĩnh Bộ ba bóng tối Dante, Phép thuật trọng lực của ông cho phép ông tự do điều khiển trọng lực của bản thân, người khác và các vật thể khác. Anh ta cũng có thể sở hữu Ác quỷ cấp thấp. Trước các sự kiện của bộ truyện, Lucifero cố gắng chiếm hữu cơ thể của Liebe khi con quỷ lừa đảo đến thế giới sống và làm Licita bị thương nặng khi cô ngăn cản nỗ lực của anh ta. Lucifero bỏ rơi Dante sau thất bại của anh ta và lập một hiệp ước với Morris để đẩy nhanh Qliphoth nhằm xuất hiện hoàn toàn, một hành động sẽ hủy diệt thế giới. Khi Morris dễ dàng bị Black Bulls đánh bại, Lucifer hy sinh vật chủ của mình để mở cánh cổng thứ hai và chiếm hữu những con quỷ đang nổi lên để tạo ra một cơ thể thô sơ nhằm chống lại các Hiệp sĩ Phép thuật. Mặc dù hình dạng quái dị của anh ta bị Black Bulls kiềm chế và bị Asta tiêu diệt, Lucifero vẫn cố gắng thể hiện một phần bản thân mình trong thế giới sống và quyết tâm giết các Hiệp sĩ Phép thuật và mọi người khác ở trạng thái hiện tại sau khi thừa nhận họ có khả năng làm hại anh ta. . Mặc dù đánh bại gần như tất cả mọi người có mặt, bao gồm cả Yuno và hầu hết các đội trưởng, Asta đã đạt được một Liên minh Quỷ hoàn chỉnh hơn và đánh bại được Lucifero, chỉ để trái tim của ác quỷ bị Adrammelech xé toạc khỏi cơ thể anh ta và giao cho Lucius Zogratis. Lucis sau đó du hành đến thế giới ngầm và giết chết nửa còn lại của Lucifero, ăn thịt trái tim của anh ta ngay sau đó. Astaroth (アスタロト, Asutaroto) Một trong ba ác quỷ cấp cao nhất đã rời khỏi thế giới ngầm nhiều năm trước và hiện đang cư trú trong cơ thể của Lucius Zogratis, sở hữu Ma pháp Thời gian. Beelzebub (ベルゼブブ, Beruzebubu) Là một trong ba con quỷ cấp cao nhất sinh sống ở Vương quốc Spade, Phép thuật không gian của hắn cho phép hắn tạo ra các cổng và không gian chiều điều khiển mana. Ban đầu cư trú trong cơ thể của Zenon Zogratis, Beelzebub sau đó được Lucius thanh tẩy và đặt vào trong cơ thể của Lily Aquaria. Megicula (メギキュラ, Megikyura ) Lồng tiếng bởi: Genki Muro (dạng khổng lồ) Là một ác quỷ thay thế Astaroth và cư trú tại Vương quốc Spade trong cơ thể Vanica Zogratis, Megicula là nguồn gốc của mọi phép thuật dựa trên lời nguyền trong thế giới sống thông qua Phép thuật ngăn chặn lời nguyền (呪符魔法, Jufu Mahō ) của cô , một sức mạnh đủ mạnh để bất cứ ai đề cập đến thực thể mà không được bảo vệ đều bị nguyền rủa. Trước các sự kiện của bộ truyện, Megicula đã lập một hiệp ước với gia đình Agrippa để ban cho họ phép thuật nguyền rủa và sau đó giết Acier Silva theo yêu cầu của Vanica, hành động sau được tiết lộ là một phần trong kế hoạch của Megicula nhằm thể hiện đầy đủ thông qua một nghi lễ được gọi là Femcantation Ác độc. (邪心女呪音, Jashin Jojuin ) , nơi cô được yêu cầu phải giết ba pháp sư mạnh mẽ cùng giới. Nghi lễ cũng cho phép Megicula có được linh hồn và phép thuật của Acier để sử dụng cho riêng mình. Megicula nhắm đến Công chúa Lolopechka làm vật hiến tế thứ hai, giáng cho cô một lời nguyền chết chóc, dẫn đến việc Vương quốc Cỏ ba lá và Vương quốc Trái tim phải liên minh để tiêu diệt cô. Megicula xuất hiện một phần từ cơ thể của Vanica khi cô bị Noelle đánh bại, tiết lộ vật chủ của cô là vật hiến tế cuối cùng trước khi tiếp tục chế ngự nhóm của Noelle. Nhưng Megicula bối rối trước lời khẳng định của Noelle rằng sức mạnh thực sự của nhân loại là quyết tâm của họ khi Rill, Charlotte và Gaja hồi sinh để chiến đấu với những người lính đã hồi sinh của Megicula. Đồng hành cùng Luck và Asta trong việc cứu Lolopechka sau này, Nozel đã gây sát thương cho cơ thể của Megicula đủ để Noelle phá hủy trái tim của ác quỷ và giải phóng linh hồn của mẹ họ. Megicula tan rã khi chấp nhận rằng cô đã sai về sức mạnh của con người. Gimodelo (ギモデロ, Gimodero), Slotos (スロトス, Surotosu), Plumede (プルメデ, Purumede) và Walgner (ワルグナ, Waruguna) Lồng tiếng bởi: Ray Chase Bốn con quỷ cấp trung cư trú trong cơ thể của Nacht Faust, đội phó của Black Bulls. Thông qua việc sử dụng bóng của Nacht, chúng có thể xuất hiện dưới dạng ma thú hoặc những dạng lớn hơn, oai vệ hơn đeo mặt nạ động vật . Gimodelo đeo mặt nạ chó; Liên minh ác quỷ với anh ta đã ban cho Nacht đặc tính "Gói", cho anh ta khả năng tạo ra những sinh vật chó hình người từ bóng tối của mình. Slotos đeo mặt nạ lừa; Sự kết hợp giữa quỷ dữ với anh ta ban cho Nacht đặc tính "Dẻo dai", mang lại cho anh ta sức mạnh thể chất và sức bền to lớn. Plumede đeo mặt nạ mèo; Sự kết hợp giữa quỷ dữ với anh ta mang lại cho Nacht đặc tính "Nhanh nhẹn", mang lại cho anh ta tốc độ và khả năng né tránh tuyệt vời. Walgner đeo mặt nạ gà trống; Liên minh ác quỷ với anh ta ban cho Nacht đặc tính "Gọi", cho khả năng phát ra sóng âm thanh có thể làm choáng kẻ thù. Các nhân vật khác Cha Orsi Lồng tiếng bởi: Yōji Ueda (OVA), Kazuki Nakao (anime) Cha Orsi Ofai (オルジ・オーファイ, Oruji Ōfai) là Linh mục của Nhà thờ ở Làng Hage, người cũng điều hành trại trẻ mồ côi nơi Asta và Yuno lớn lên. Ông ấy coi cả hai cậu bé như con nuôi của mình cùng với mọi đứa trẻ mồ côi khác dưới sự chăm sóc của ông. Ông ấy thiên về việc thể hiện tình cảm của một người cha với Yuno và Asta sau khi họ rời trại trẻ mồ côi, thường xuyên lao tới ôm họ chỉ để ngã sấp mặt sau khi họ né tránh. Ông ta có thể sử dụng Hỏa thuật và điều khiển chổi bay. Trong arc tái sinh của yêu tinh, ông và những người còn lại của Làng Hage bị tấn công bởi một Kỵ sĩ Ma pháp từ đoàn Tử Kình nhưng được Asta và Yuno cứu. Sơ Lily Lồng tiếng bởi: Ai Kayano (OVA), Miyu Kubota (anime) Chị Lily Aquaria (リリー・アクアリア, Rirī Akuaria) là một nữ tu trẻ và là người trông coi Nhà thờ ở Làng Hage, người đã giúp nuôi dạy Asta và Yuno từ khi họ còn là những cậu bé. Cô từng làm việc cho một nhà thờ thuộc giới quý tộc nhưng đã rời đi do sự phân biệt đối xử về ma pháp trong nhà thờ. Cô ấy có một thái độ tốt bụng và có thể trở nên nghiêm túc khi được yêu cầu. Asta đã phải lòng cô kể từ lần đầu tiên họ gặp Lily liên tục từ chối lời cầu hôn của cậu trước khi cậu ngừng theo đuổi sau khi ngỏ lời cầu hôn cô lần cuối khi cậu đủ tuổi kết hôn hợp pháp. Cô sở hữu kỹ năng cao về Ma pháp nước, thường được thể hiện rõ nhất khi cô trừng phạt Asta bằng cách triệu hồi những nắm đấm nước khổng lồ để đè cậu xuống đất. Trong phần tái sinh của yêu tinh, cô và những người còn lại của Làng Hage bị tấn công bởi một Kỵ sĩ Ma pháp từ đoàn Tử Kình nhưng được Asta và Yuno cứu. Rebecca Scarlet Lồng tiếng bởi: Rikako Yamaguchi Rebecca Scarlet (レベッカ・スカーレット, Rebekka Sukāretto) là một phụ nữ trẻ tóc đỏ, người chăm sóc năm đứa em của mình đến mức khiến nhiều người nhầm tưởng cô là mẹ của chúng. Rebecca gặp Asta lần đầu khi bị bạn bè ép tham gia một buổi hẹn hò nhóm, dần dần có cảm tình với cậu khi nhận ra họ có nhiều điểm chung. Mọi chuyện nảy sinh tình cảm sau khi Asta bảo vệ cô khỏi một kẻ bắt nạt say rượu, Rebecca cuối cùng quyết định không tiếp tục việc đó sau khi nhận thấy cảm xúc của Noelle mặc dù đã hôn lên má cậu sau khi cậu cứu mấy đứa em của cô. Sơ Theresa Rapual Lồng tiếng bởi: Rei Igarashi Sơ Theresa Rapual (テレジア・ラプアール, Terejia Rapuāru) là một nữ tu lớn tuổi và là cựu Ma pháp kỵ sĩ của Hồng Liên Sư Tử đoàn, người mặc trang phục của một nữ tu và có một vết sẹo dài lởm chởm trên mắt trái kéo dài từ trán đến giữa má. Trong thời gian làm việc cho đoàn, bà là người hướng dẫn ma pháp của Fuegoleon Vermillion, nhưng cuối cùng đã nghỉ hưu sau khi cảm thấy mệt mỏi khi chứng kiến ​​​​những đứa trẻ bị giết trong trận chiến và trở thành một nữ tu để chăm sóc trẻ mồ côi. Bà chăm sóc Marie Adlai, em gái của Gauche Adlai, và ngăn cản anh gặp Marie nhiều hơn một lần mỗi tháng do hành vi ám ảnh của anh. Bà tham gia vào cuộc chiến giải cứu những đứa trẻ của Làng Nean khỏi Baro và Neige, chứng tỏ rằng bà vẫn là một thế lực đáng nể dù tuổi đã cao. Sau khi bà bị thương trong trận chiến, Gauche bắt đầu đối xử với bà tôn trọng hơn. Sau khi hồi phục, bà tiếp tục nhiệm vụ chăm sóc trẻ mồ côi. Marie Adlai Lồng tiếng bởi: Hitomi Sasaki Marie Adlai (マリー・アドレイ, Marī Adorei) là em gái của Gauche, người mà anh yêu quý đến mức trở thành tội phạm (tìm đồ ăn cho cô bé) sau khi họ bị đuổi nhà. Sau khi Gauche bị bắt, Marie được đưa vào trại trẻ mồ côi do Sơ Theresa Rapual giám sát, nơi cô kết bạn với nhiều trẻ em ở đó. Sau đó cô bị bắt cóc cùng với những đứa trẻ còn lại ở Làng Nean bởi Neige và Baro. Cô được Asta, Gauche và Sơ Theresa cứu. Khi Gauche cố gắng đưa cô trở lại làng, cô đã thuyết phục anh quay lại và giúp đỡ những người khác. Khi Patry tái sinh các yêu tinh, Marie bị chiếm hữu bởi yêu tinh Eclat (エクラ, Ekura), người sở hữu Ma pháp mắt cho phép cô sử dụng ma pháp mà không cần ma đạo thư. Marie trở lại bình thường sau khi Asta trục xuất linh hồn yêu tinh khỏi cơ thể cô. Cô bị đưa đến phiên tòa xét xử Asta để bị kết tội và suýt bị giết cho đến khi được Asta cứu. Neige Lồng tiếng bởi: Kōhei Amasaki Neige (ネージュ, Nēju) là một pháp sư và là em trai của Baro, người có thể sử dụng Ma pháp tuyết, giúp Baro bắt cóc trẻ em vì sợ làm hắn ta tức giận. Lý do khác của Neige là nỗi ám ảnh về ham muốn bạn bè, đả kích Marie khi cô tố cáo việc bắt cóc như một cách để kết bạn với người khác. Trong trận chiến chống lại các Ma pháp kỵ sĩ khi họ đi giải cứu bọn trẻ, Neige đã được Asta cứu khỏi hình dạng quái vật bùn của Baro để anh có thể chịu trách nhiệm về tội ác của mình. Neige cứu Asta bằng cách đóng băng Baro lại và thề sẽ trả thù Sally và Bạch Dạ Ma Nhãn vì đã biến Baro thành quái vật. Sau khi Asta nói rằng cậu ta sẽ rất vui khi được làm bạn của mình khi cho phép anh bị bắt, suy nghĩ ăn năn của anh được ghi nhận khi anh ấy bị kết án phục vụ cộng đồng tại nhà thờ của Sơ Theresa. Baro Lồng tiếng bởi: Genki Muro Baro (バロ) là một pháp sư tóc đen sở hữu Ma pháp Bùn và kính để đo mana của một người. Một tên côn đồ được Sally thuê để thu thập mana bằng cách đánh cắp nó từ trẻ em. Trong nỗ lực hút mana từ những đứa trẻ ở Làng Nean, bao gồm cả những đứa em của Rebecca Scarlet và em gái của Gauche Adlai, hắn đã yêu cầu sự giúp đỡ của Sally sau khi bị đánh bại và bị trói. Trong khi Baro định nhanh chóng chạy trốn ngay khi được giải thoát, cuối cùng hắn ta lại phải chịu Công cụ ma thuật đảo ngược của Sally, khiến hắn ta bị ma pháp của mình tiêu diệt và biến thành một con quái vật khổng lồ. Hắn ta bị đánh bại bởi Asta, Gauche và Sơ Theresa với phần còn lại bị đóng băng bởi Neige. Fanzell Kruger Lồng tiếng bởi: Satoshi Mikami Fanzell (ファンゼル・クルーガ, Fanzeru Kurūgā) là một người sử dụng Ma pháp Gió, kiếm sĩ và là cựu chỉ huy của quân đội Vương quốc Diamond. Anh ta đã dẫn dắt vị hôn phu Dominante và một số học sinh của mình rời bỏ Vương quốc sau khi ngày càng mệt mỏi với sự tàn ác của quân đội, tách khỏi Dominante và chấp nhận điều tồi tệ nhất. Nhưng sau khi Fanzell huấn luyện Asta kiếm thuật sau khi chàng trai trẻ có được cuốn ma đạo thư, cuối cùng anh ta đã đoàn tụ với Dominante và cả hai ở lại Vương quốc Clover để lẩn trốn. Anh giúp đỡ Asta trong sự cố Khu rừng của các phù thủy, đoàn tụ với Mars và Fana khi anh nhận sự bảo vệ của những người sau này Dominante Lồng tiếng bởi: Misako Tomioka Dominante (ドミナント・コード, Dominanto Kōdo), xuất thân từ Rừng Phù thủy, trước đây phục vụ cho Vương quốc Diamond. Vị hôn phu Fanzell của cô đã đề cập đến kỹ năng đặc biệt của cô trong việc chế tạo các công cụ ma pháp như đũa phép, chổi bay và thậm chí cả áo choàng tàng hình. Dominante rời bỏ Vương quốc cùng với Fanzell khi họ chạy trốn vào Vương quốc Clover. Trong trận chiến, cô sử dụng một cây đũa thần được trang trí bằng một bông hồng tím do cô tự chế tạo. Cô yêu Fanzell tha thiết nhưng thường xuyên trút sự bực bội của mình với anh bằng cách liên tục đấm vào mặt anh, dù anh có xứng đáng hay không. Sau đó, cô giúp đỡ Asta, Noelle, Finral, Vanessa, Fanzell và Mariella trong Khu rừng phù thủy. Mariella Lồng tiếng bởi: Sayaka Senbongi Mariella (マリエラ, Mariera) là một người sử dụng Ma pháp Băng và là học trò cũ của Fanzell, là một sát thủ tàn nhẫn, đã giả vờ đào ngũ khỏi Vương quốc Diamond để lấy Fanzell và ám sát bất kỳ kẻ đào ngũ nào khác. Khi gặp Asta, cô thừa nhận rằng cô cũng cảnh giác với Vương quốc Diamond, trở thành kẻ đào ngũ chính thức khi giúp Hắc Bộc Ngưu đánh bại những sát thủ - đồng đội của mình, và cuối cùng sống với Fanzell và Dominante để chuộc lỗi trong quá khứ bằng cách giúp đỡ người khác. Sau đó, cô giúp đỡ Asta, Noelle, Finral, Vanessa, Fanzell và Dominante trong Khu rừng phù thủy. Licht Lồng tiếng bởi: Takahiro Sakurai Thủ lĩnh của Yêu tinh sở hữu Kiếm thuật, Licht (リヒト, Rihito) là chủ sở hữu trước đây của Cuốn ma đạo thư cỏ năm lá hiện đang được Asta sở hữu. Licht bày tỏ mong muốn người dân của mình cùng tồn tại với con người và kết bạn với Lumiere trong khi yêu em gái con người - Tetia. Sau khi Licht và Tetia mang thai đôi đứa con nửa yêu tinh, họ kết hôn với sự hiện diện của các yêu tinh. Nhưng Zagred đã sắp xếp để gia đình Tetia và các hoàng gia loài người tấn công vào thời điểm đó khi Licht chứng kiến ​​​​người của mình bị tàn sát cùng với một trong những đứa con của mình khi vợ anh bị trọng thương trong cuộc tấn công. Sau khi Grimoire của anh ta biến thành ma đạo thư cỏ năm lá, Licht đấu tranh để ngăn Zagred chiếm hữu anh ta trước khi sử dụng những viên đá ma thuật để biến mình thành một con quái vật vô tâm nhằm ngăn chặn sự chiếm hữu của hắn. Lumiere sau đó buộc phải giết bạn mình để ngăn chặn cơn thịnh nộ của Licht sau khi lấy được năng lượng của yêu tinh. Licht bị biến thành một bộ xương rải rác khắp khu vực mà Làng Hage sẽ được xây dựng, đồng thời cũng quy thành quỷ dữ bởi những câu chuyện về sự kiện này của Vương quốc Clover. Đứa con còn sống của Tetra và Licht sau đó sẽ chạy trốn đến Vương quốc Heart, nơi con cháu của họ phát triển mạnh mẽ ở làng Elysia. Trong khi Patry giả định danh tính của Licht sau khi tái sinh vào cơ thể của William Vangeance 5 thế kỷ sau, anh yêu cầu Sally tạo ra một cơ thể nhân tạo để linh hồn của Licht cư trú sau khi tất cả các Yêu tinh đã được hồi sinh hoàn toàn. Nhưng ảnh hưởng của sự biến đổi khủng khiếp của Licht khiến linh hồn anh ta gần như ngủ quên vào thời điểm mình được hồi sinh, hành động của anh chỉ do bản năng điều khiển. Licita Lồng tiếng bởi: Kaori Ishihara Mẹ ruột của Asta và mẹ nuôi của Liebe, Licita (リ チ タ, Richita) đã để Asta ở cửa nhà thờ khi còn bé, lo lắng rằng cô sẽ hấp thụ ma pháp và sinh lực của con trai mình. Trong khi cơ thể cô đánh cắp ma pháp và sinh lực, ma pháp của cô ấy lưu trữ những vật thể không có mana vào những vật thể khác. Licita tình cờ gặp Liebe, người miễn nhiễm với sự hấp thụ của mình, do là ác quỷ và không có bất kỳ ma pháp nào. Cô nhận Liebe làm con nuôi và đặt tên cho cậu, chung sống hạnh phúc với cậu. Cuối cùng, Lucifero chiếm lấy một phần cơ thể của Liebe, và Licita sử dụng khả năng hấp thụ ma pháp của mình để đuổi hắn ta ra ngoài, bằng cái giá là mạng sống của mình. Trước khi chết, cô sử dụng ma pháp của mình để cất giữ Liebe trong cuốn ma đạo thư năm lá, bảo vệ cậu khỏi Lucifero và lớn lên an toàn.
19856622
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fortepiano
Fortepiano
“Fortepiano” , hay còn gọi là “pianoforte” là những thuật ngữ được sử dụng để phân biệt đàn piano thế kỷ 18 và đầu hoặc giữa thế kỷ 19 với đàn piano hiện đại. Cái tên này có nguồn gốc từ mô tả năm 1711 của Scipione Maffei về cây đàn những năm 1700 của Bartolomeo Cristofori như một “gravicembalo col piano, e forte” (“cây đàn harpsichord với âm thanh mềm mại và to”). Nhạc cụ này trở nên phổ biến sau khi Gottfried Silbermann bắt đầu cho sản xuất đàn fortepianos ở Đức. Frederick Đại đế đã mua một vài cây đàn của Silbermann, và người chỉ huy dàn hợp xướng của ông là Carl Philipp Emanuel Bach đã chơi chúng. Một trong những nhà chế tạo fortepiano nổi tiếng nhất là Johann Andreas Stein đến từ Augsburg, Đức. Trên những cây đàn của Stein đều có một bộ máy cơ gọi là “bộ máy cơ của thành Viên”, phổ biến trên đàn piano thành phố Viên cho đến giữa thế kỷ 19. Một nhà chế tạo piano nổi tiếng khác của Viên là Anton Walter. Cây đàn fortepiano Walter của nhà soạn nhạc Mozart hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Mozart ở Salzburg, Áo. Nhà soạn nhạc Haydn từng sở hữu một cây đàn piano Walter, và Beethoven cũng từng mong muốn mua một cây. Nhà chế tạo đàn piano thời kỳ đầu lãng mạn nổi tiếng nhất là Conrad Graf (1782–1851). Ông là người đã chế tạo ra cây đàn piano cuối cùng của Beethoven. Chopin, Mendelssohn và Schumann cũng đã từng chơi trên đàn của Graf. Riêng nhà soạn nhạc Johann Brahms lại ưa thích những cây đàn piano của Johann Baptist Streicher. Những nhà chế tạo đàn piano nổi tiếng ở Anh quốc trong thời đại này là những bậc thầy như Johannes Zumpe, Robert Stodart và John Broodwood. Ở Pháp những nhà chế tạo piano nổi tiếng là Erard, Pleyel (nhà chế tạo yêu thích của Chopin) và Boisselot (nhà chế tạo yêu thích của Liszt). Sự lỗi thời và sự hồi sinh Từ giữa thế kỷ 19, việc chế tạo đàn piano phát triển mạnh mẽ, đàn fortepiano được cải tiến và phát triển thành đàn piano hiện đại (xem Piano). Đến cuối thế kỷ 19, đàn fortepiano không còn được sản xuất nữa. Trong nửa sau của thế kỷ 20, các nhạc cụ thời xưa nhận được sự quan tâm lớn và được phục dựng lại, như đàn clavico và fortepiano. Một trong các nhà chế tạo fortepiano nổi tiếng thời kỳ hồi sinh của fortepiano vào thế kỷ 20 này là Philip Belt, Margaret F. Hood, Rodney Regier và Paul McNulty. Việc phục dựng lại đàn fortepiano đã giúp hồi sinh các tác phẩm âm nhạc của thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, mang lại những hiểu biết mới về âm nhạc thời kỳ này. Ngày càng có nhiều trường dạy nhạc bắt đầu mở các khóa học fortepiano. Một số cuộc thi fortepiano đã được tổ chức, bao gồm Cuộc thi MA ở Brugge và Cuộc thi Chopin Quốc tế trên các nhạc cụ thời Chopin, do Viện Chopin Warsaw tổ chức. Chuyên gia đàn fortepiano hiện đại Một số nghệ sĩ chơi đàn clavico và nghệ sĩ dương cầm hiện đại đã đạt được thành tích xuất sắc khi biểu diễn trên đàn fortepiano như Susan Alexander-Max, Paul Badura-Skoda, Malcolm Bilson, Hendrik Bouman, Ronald Brautigam, David Breitman, Wolfgang Brunner, Gary Cooper, Jörg Demus, Ursula Dütschler. Richard Egarr, Richard Fuller, Tuija Hakkila, Christoph Hammer, Robert Hill, Knut Jacques, Jenny Soonjin Kim, Piet Kuijken, Geoffrey Lancaster, Gustav Leonhardt, Trudelies Leonhardt, Morgane Le Corre, Robert Levin, Alexei Lubimov, Steven Lubin, Yury Martynov, Zvi Meniker, Bart van Oort, Trevor Pinnock, David Schrader, Viviana Sofronitsky, Andreas Staier, Melvyn Tan, Jos van Immerseel, Andras Schiff, Kristian Bezuidenhout, song tấu Katie và Marielle Labeque, Vladimir Feltsman và Olga Pashchenko. Tham khảo Các liên kết bên ngoài 10-minute video crash course introduction to the Viennese 5-octave fortepiano Photo and discussion of the action of Viennese fortepianos One of Arnold Dolmetsch's late 19th century fortepianos Image and discussion of 1795 Dulcken fortepiano Images of fortepianos in the Abell Gallery, National Music Museum, Vermillion, South Dakota The Pianofortes of Bartolomeo Cristofori, Heilbrunn Timeline of Art History, The Metropolitan Museum of Art Các cây đàn piano lịch sử khác tại The Metropolitan Museum of Art Piano by Conrad Graf, Vienna, 1838 Piano by Ferdinand Hofmann, Vienna, c. 1790 Piano by Johann Schmidt, Salzburg, c. 1790 Piano by Joseph Böhm, Vienna, c. 1820 Fortepianos in the Museum of the University of Leipzig Cobbe Collection, UK fortepiano – photoarchive Modern fortepiano builder Paul McNulty website More information on early keyboard instruments Geelvinck Muziek Musea | Piano's met karakter, muziek met een verhaal - Bộ sưu tập Sweelinck tại Bảo tàng Geelvinck Hinlopen Huis ở Amsterdam: hơn 80 cây đàn piano lịch sử Radbon Fortepiano Collection c. 1760 to 1860 John A. Rice, "Stein's 'Favorite Instrument': A Vis-à-vis Piano-Harpsichord in Naples" Nhạc cụ cổ Nhạc cụ
19856624
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%201st%20International%20Chopin%20Competition%20on%20Period%20Instruments
The 1st International Chopin Competition on Period Instruments
I International Chopin Competition on Period Instruments - Cuộc thi Chopin quốc tế lần thứ nhất trên những nhạc cụ thời xưa do Viện Fryderyk Chopin tổ chức  từ ngày 2 đến 14 tháng 9 năm 2018 tại Warsaw. 30 nghệ sĩ piano từ 9 quốc gia đã được mời tham gia cuộc thi. Tomasz Ritter đến từ Ba Lan đã giành chiến thắng. Nhạc cụ Ý tưởng của cuộc thi là biểu diễn các tác phẩm của Chopin trên các nhạc cụ mà chúng đã được sáng tác. Các nghệ sĩ piano có thể chọn cây đàn piano mà họ sẽ chơi trong cuộc thi từ ba cây đàn đã được phục dựng – cây Érard phiên bản năm 1837, Pleyel năm 1842, Broadwood năm 1847-1848 và 2 cây đàn phiên bản hiện đại - bản sao cây đàn Buchholtz năm 1826 của Paul McNulty và bản sao cây đàn Graf năm 1819 của McNulty. Không giống như Cuộc thi Piano Chopin Quốc tế trên các nhạc cụ đương đại, các nghệ sĩ piano biểu diễn các tác phẩm riêng lẻ trên nhiều nhạc cụ khác nhau. Tham khảo Liên kết bên ngoài http://iccpi.eu/en/competition/about/79 https://www.rhinegold.co.uk/international_piano/nifc/ Period Pianos - The Fryderyk Chopin Institute Collection Videos of performances of participants of the contest Giải thưởng Cạnh tranh Nhạc cổ điển Âm nhạc châu Âu Nhạc cụ Bàn phím
19856646
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Minh%20%28nh%C3%A0%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%29
Trương Minh (nhà ngoại giao)
Trương Minh (; sinh 1957) là một nhà ngoại giao Trung Quốc hiện đang giữ chức tổng thư ký của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Trước đây ông từng là đại sứ Trung Quốc tại Liên minh châu Âu và Kenya. Tiểu sử Từ năm 1975 đến 1976, ông làm việc tại nhà máy máy biến thế ở Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam và từ năm 1976 đến 1977, ông làm việc tại huyện Thương Khâu, tỉnh Hà Nam. Từ năm 1978 đến 1983, ông học tiếng Ả Rập tại Khoa Ngôn ngữ Á và Phi, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh. Năm 1983, ông được bổ nhiệm làm nhân viên Vụ Tây Á và Bắc Phi thuộc Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cùng năm đó, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc.Từ năm 1984 đến năm 1985, ông là nhân viên của Đại sứ quán Trung Quốc tại Yemen. Từ năm 1985 đến năm 1988, ông giữ chức vụ tùy viên Vụ Tây Á và Bắc Phi trong Bộ và từ năm 1988 đến năm 1992, ông giữ chức Bí thư thứ ba và Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Trung Quốc tại Oman. Từ năm 1992 đến năm 1997, ông giữ chức vụ Phó Vụ trưởng và Bí thư thứ nhất Vụ Tây Á và Bắc Phi. Từ năm 1997 đến năm 2001, ông giữ chức Bí thư thứ nhất và Tham tán Đại sứ quán Trung Quốc tại Israel. Năm 2006, ông được bổ nhiệm làm đại sứ Trung Quốc tại Kenya. Đồng thời, ông được bổ nhiệm làm Đại diện thường trực cho Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc và Chương trình Định cư con người của Liên Hợp Quốc. Từ năm 2009 đến 2010, Trương giữ chức Vụ trưởng Vụ Châu Phi của Bộ Ngoại giao. Từ năm 2010 đến 2011, ông giữ chức vụ Chánh Văn phòng Bộ. Từ năm 2011 đến 2013, ông giữ chức Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và năm 2013, ông được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Năm 2017, Trương được bổ nhiệm làm đại sứ Trung Quốc tại Liên minh châu Âu. Đồng thời, ông trở thành người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc tại NATO. Vào tháng 1 năm 2018, ông được chọn làm thành viên Ủy ban Quốc gia khóa 13 của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc. Tháng 1 năm 2022, ông trở thành Tổng thư ký Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Chú thích Người Hà Bắc Đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
19856648
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3o%20Trang%20%28nh%C3%A0%20v%C4%83n%29
Thảo Trang (nhà văn)
Thảo Trang (sinh ngày 08 tháng 10 năm 1991 tại Hải Phòng) là một nhà văn, doanh nhân, biên kịch nổi tiếng Việt Nam. Tác phẩm Truyện Phim Phim truyền hình Phim điện ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Facebook chính thức của Thảo Trang Người Hải Phòng Nhà văn Việt Nam Nhân vật còn sống
19856650
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%9B%20m%C3%B9a%20thu%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
Nhớ mùa thu Hà Nội
"Nhớ mùa thu Hà Nội" là bài hát do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sáng tác vào năm 1985. Bài hát được sáng tác vào một đêm say trong khoảng thời gian một tháng nhạc sĩ sống tại Hà Nội, với phần lời sử dụng những hình ảnh đặc trưng của một thủ đô cổ xưa, trầm mặc và thiêng liêng. Sáng tác Mùa thu năm 1985, Trịnh Công Sơn và ba đồng nghiệp được Bộ Văn hóa Liên Xô mời sang thăm nước Liên Xô. Khi trở về Việt Nam, nhạc sĩ ở lại Hà Nội một tháng. Một buổi tối, Trịnh Công Sơn cùng nhà thơ Dương Tường đến uống rượu ở nhà một người bạn ở khu tập thể Kim Liên cùng với Phạm Tuân. Trong khi Dương Tường chỉ dám nhấp môi thì Trịnh Công Sơn lại uống rất nhiệt tình. Sau buổi nhậu, vì Trịnh Công Sơn bị say nên Dương Tường dìu ông lên xích lô chở về khách sạn Đồng Lợi nằm trên ngã ba đường Lê Duẩn với phố Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm. Dương Tường ở lại khách sạn và ngủ cùng Trịnh Công Sơn, nhưng nửa đêm tỉnh dậy ông thấy Trịnh Công Sơn đang ngồi viết "Nhớ mùa thu Hà Nội". Chủ đề Theo Anh Mai của VnExpress, "Nhớ mùa thu Hà Nội" ra đời trong một tháng “gặp gỡ” của những tâm hồn đồng điệu. Bài hát lấy cảm hứng chủ đạo là "nỗi nhớ, khi tình yêu giữa đất và người vừa chớm nở đã phải chia xa", đồng thời "làm người đi xa không khỏi xốn xang, người ở gần không khỏi bồi hồi vào những buổi sớm heo may trong lòng thành phố". Bài hát được Trịnh Công Sơn đưa vào những hình ảnh đặc trưng của Hà Nội xưa, bao gồm cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu, vốn được coi là biểu tượng của một thủ đô cổ xưa, trầm mặc, thiêng liêng, hiển hiện trong tâm trí người yêu Hà Nội như tranh phố Phái, như cốm làng Vòng, hay những con đường mang hương hoa sữa nồng nàn tháng 10. Thể hiện "Nhớ mùa thu Hà Nội" được thể hiện bởi nhiều ca sĩ khác nhau, trong đó có thể kể đến Khánh Ly và Hồng Nhung, trong đó bản thu âm của Hồng Nhung được coi là bản thu thành công nhất. Đón nhận Một số hình ảnh đặc trưng về Hà Nội được nhạc sĩ đưa vào bài hát gây ra nhiều tranh cãi. Hình ảnh "cốm sữa vỉa hè" được những người Hà Nội thắc mắc về sự tồn tại của "cốm sữa", là tên một loại cốm hay là món ăn cốm với sữa của người Hà Nội ngày trước. Nhạc sĩ Đoàn Bổng thì cho rằng bài hát này có những ca từ "mâu thuẫn" khi mang câu hát "trời thu Hà Nội trả lời cho tôi", vì theo ông, "mùa thu Hà Nội tượng trưng cho mùa thu cách mạng. Vậy nói mùa thu Hà Nội trả lời là trả lời cái gì?". Tham khảo Nhạc Trịnh Công Sơn Bài hát năm 1985 Bài hát về Hà Nội
19856652
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202023
VCS mùa giải 2023
VCS mùa giải 2023 là mùa giải thứ 11 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Hừng Đông (mùa xuân) và Hoàng Hôn (mùa hè). Giải Hừng Đông sẽ bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 23 tháng 4 năm 2023. Giải Hoàng Hôn sẽ bắt đầu vào ngày 23 tháng 6 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 9 tháng 9 năm 2023. Đội quán quân giải Hừng Đông, GAM Esports, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023. GAM Esports cũng đã vô địch giải Hoàng Hôn, họ cùng á quân của giải, Team Whales, đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023. Những thay đổi Các đội Giải Hừng Đông Genius Esports và AS Esports đã bị loại khỏi giải đấu vì những lý do không được tiết lộ. MGN Box Esports và Team Flash đã thay thế họ. Giải Hoàng Hôn Sau trận đấu đầu tiên, SBTC Esports bị điều tra vì có hành vi vi phạm nội quy giải đấu, tất cả các trận đấu của họ đã bị hoãn và kết quả thi đấu của họ đã bị đình chỉ cho đến khi cuộc điều tra kết thúc. Sau đó, đội tuyển SBTC Esports và chủ sở hữu của đội tuyển, Trần Đức Cường, bị cấm tham gia các giải đấu thể thao điện tử do Riot Games tổ chức do vi phạm nghiêm trọng nội quy, quy định của giải đấu. Các tuyển thủ có liên quan đến hành vi vi phạm nội quy giải đấu, bao gồm: Trần "Nper" Đình Tuấn, Đỗ "DNK" Ngọc Khải, Nguyễn "Penguin" Đăng Khoa, Lê "Dia1" Phú Quý và Lê "Vinboiz" Trần Quang Vinh bị đình chỉ 36 tháng khỏi tất cả các giải đấu thể thao điện tử do Riot Games tổ chức do vi phạm nghiêm trọng nội quy, quy định của giải đấu. Ngày 5 tháng 10, SBTC Esports chính thức giải tán đội tuyển. Giải Hừng Đông Vòng bảng giải Hừng Đông diễn ra từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 10 tháng 4 năm 2023. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 4 năm 2023. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Hừng Đông đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Giải Hoàng Hôn Vòng bảng giải Hoàng Hôn diễn ra từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023. 7 đội chơi tổng cộng 42 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 6 đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 12 tháng 8 đến ngày 9 tháng 9 năm 2023. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Hoàng Hôn đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Tham khảo Liên Minh Huyền Thoại năm 2023
19856666
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danionella
Danionella
Danionella là một chi cá sinh sống ở các khu vực nước ngọt ở Myanmar và Tây Bengal, Ấn Độ. Chi này có các loài cá nhỏ nhất thế giới sinh sống ở vùng nước ngọt. Bốn trong 5 loài trong chi Danionella sinh sống ở Myanmar. D. translucida sinh sống ở lưu vực sông Irrawaddy, còn D. mirifica sinh sống ở khu vực Kamaing ở Thượng Myanmar. Danionella priapus là loài đặc hữu Ấn Độ. Mô tả Khi được mô tả lần đầu tiên, Danionella translucida đã là loài cá Ostariophysi nhỏ nhất và là lài động vật có xương sống trưởng thành nhỏ nhất sinh sỗng ở khu vực nước ngọt. Danionella translucida trưởng thành dài 10–12 millimet SL. D. mirifica lớn hơn một chút, dài khoảng 14 mm (.55 in) SL, nhưng vẫn là một trong những loài cá nước ngọt nhỏ nhất thế giới. Loài Chi này có các loài: Danionella cerebrum Britz, Conway & Rüber, 2021 Danionella dracula Britz, Conway & Rüber, 2009 '* *Danionella mirifica Britz, 2003 Danionella priapus Britz, 2009 Danionella translucida T. R. Roberts, 1986 Tham khảo Danionella
19856668
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catherine%20Sedley%2C%20B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Dorchester
Catherine Sedley, Bá tước xứ Dorchester
Catherine Sedley, Nữ Bá tước xứ Dorchester và Bá tước phu nhân xứ Portmore (21 tháng 12 năm 1657 – 26 tháng 10 năm 1717), là một nữ quý tộc và cận thần người Anh. Catherine là tình nhân của James II của Anh cả trước và sau khi James lên ngôi. Catherine được chú ý không phải vì sắc đẹp mà vì sự hóm hỉnh và tài ăn nói sắc bén. Những năm đầu đời Catherine Sedley sinh ngày 21 tháng 10 năm 1657, là người con hợp pháp duy nhất của nhà thơ thời trung hưng là Charles Sedley, Tòng Nam tước thứ 5. Mẹ của Catherine là Catherine Savage, con gái và là nữ thừa kế của John Savage, Bá tước Rivers thứ 2. Khi lớn lên, Catherine không được nhìn nhận là xinh đẹp vì có một chiếc mũi dài và miệng rộng và thân hình gầy gò. Trong khi cha của Catherine lang thang khắp đất nước, thì mẹ của Catherine lại rơi vào tình trạng mất trí, lầm tưởng bản thân là Vương hậu, yêu cầu người đến thăm phải gọi mình là "Bệ hạ" và do đó phải vào bệnh viện tâm thần ở Ghent khi Catherine ở độ tuổi thiếu niên. Vào thời điểm tồi tệ này, Charles đã đưa một người vợ là Anne Ayscough vào gia đình và đuổi con gái ra khỏi nhà. Năm 1677, Catherine từng được vợ chồng ông bà Churchill xem xét hỏi cưới cho con trai John Churchill (sau là Công tước thứ 1 xứ Marlborough). Thế nhưng chuyện không thành và Catherine chỉ kết hôn gần hai mươi năm sau đó. Tình nhân Vương thất Catherine trở thành hầu cận cho Maria Beatrice d'Este, Công nữ Modena, người vừa kết hôn với Vương tử James, Công tước xứ York, người thừa kế ngai vàng Anh, Scotland và Ireland. Điều này đã dẫn đưa Catherine đến một mối quan hệ tình ái với James. Catherine hoang mang vì được James để ý: “Đó không thể là vì vẻ đẹp của tôi vì ngài chắc chắn sẽ biết tôi không có. Và đó không thể là vì sự hóm hỉnh của tôi, vì ngài ấy không đủ hóm hỉnh để biết rằng tôi có hay không." Trên thực tế, James thường bị thu hút bởi những người phụ nữ như Catherine và Arabella Churchill, những người thường bị coi là kém xinh, nếu không muốn nói là xấu xí. Anh trai của James, Charles II của Anh từng nói đùa rằng cha giải tội của James chắc đã áp đặt những vị tình nhân như thế này cho em trai như một cách đền tội. Sau khi lên ngôi, James II đã phải chịu áp lực từ cha giải tội là Bonaventure Giffard, cùng với sự hậu thuẫn của Bá tước thứ 2 xứ Sunderland và một số ủy viên hội đồng Công giáo, buộc phải tránh xa Catherine một thời gian. Trong khi James kể lại rằng Giffard đã can dự một cách "rất tử tế, ngài ấy thực sự là một người ngoan đạo", James đã nói với các cố vấn của mình một cách gay gắt rằng "đừng can thiệp vào những việc không liên quan đến họ". Ngày 2 tháng 1 năm 1686, Catherine được phong làm Bá tước xứ Dorchester và Nam tước xứ Darlington, tước hiệu chỉ được ban riêng cho Catherine mà không được truyền thừa cho thế hệ sau. Sự việc này đã gây ra nhiều phẫn nộ, trong đó Vương hậu Maria đã dọa James II rằng sẽ vào tu viện nếu Catherine không bị trục xuất khỏi triều đình và Catherine do đó phải cư trú một thời gian ở Ireland. Sáu tháng sau đó, Catherine trở lại và James II tiếp tục gặp gỡ Catherine trong bí mật. Cuộc sống sau này Sau khi cuộc Cách mạng Vinh quang xảy ra, Catherine lâm vào tình huống cực kỳ khó xử khi người bảo hộ của Nữ Bá tước đã không còn ở Anh và tân vương Mary II lại lạnh lùng với Catheine. Nữ Bá tước đã thẳng thắn nói rằng: "Không gì ngăn cản tôi chúc những điều tốt đẹp nhất cho đương kim Quốc vương (William III của Anh) nhưng nỗi e sợ rằng việc ngài lên ngôi sẽ khiến tôi phải hối tiếc." Trong khi đó, Charles Sedley, cha của Catherine, một trong những người tham gia lật đổ James II đã giải thích cho hành động của mình rằng: Trong một lần, khi Nữ vương Mary II từ chối đón tiếp Catherine tại triều đình, Catherine đã hỏi làm thế nào Mary, người đã vi phạm điều răn yêu cầu con cái thảo kính cha mẹ, lại tốt hơn Catherine, người đã vi phạm điều răn cấm ngoại tình: Tháng 8 năm 1696, Catherine kết hôn với Sir David Colyear, Tòng Nam tước thứ 2. David được phong làm Bá tước xứ Portmore vào năm 1703 và có hai con trai với David. Catherine từng nói với hai con trai rằng: Tại triều đình của George I của Đại Anh, Catherine đã gặp tình nhân của Charles II là Louise de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth, và tình nhân của William III là Elizabeth Villiers, Bá tước phu nhân xứ Orkney, và thốt lên rằng: "Chúa ơi! Ai mà nghĩ rằng ba ả điếm chúng ta lại gặp nhau ở đây." Theo ghi nhận của Mary Clavering, Bá tước phu nhân Cowper thì tại lễ đăng cơ của George I vào năm 1714, khi Tổng giám mục Canterbury, Thomas Tenison, theo nghi thức đã hỏi liệu người dân có chấp nhận tân vương của họ hay không, Catherine đã nói với Mary rằng có ai dám nói "không" khi có quá nhiều thanh kiếm được chĩa ra: Catherine qua đời ở Bath, Somerset vào ngày 26 tháng 10 năm 1717. Mười hai năm sau đó, ngày 8 tháng 9 năm 1729, hài cốt của Catherine Sedley được đưa ra khỏi Bath và được cải táng tại Nhà thờ Thánh James, Weybridge thuộc hạt Surrey. David sống lâu hơn Catherine mười ba năm, qua đời vào ngày 2 tháng 1 năm 1730 và được an táng cùng Catherine vào ngày 13 tháng 1 năm 1730. Con cái Catherine Sedley và James II của Anh có ba người con, được đặt cho họ Darnley, dựa theo tước hiệu của tổ tiên là Henry Stuart, Lãnh chúa Darnley: Catherine Darnley (1679/1681 – 1743), kết hôn lần thứ nhất với James Annesley, Bá tước thứ 3 xứ Anglesey, và sau khi James Annesley qua đời, Catherine Darnley tái hôn với John Sheffield, Công tước thứ 1 xứ Buckingham và Normanby. Thông qua con gái, Catherine Sedley là tổ tiên của Nam tước Mulgrave và chị em nhà Mitford. James Darnley (1684 – 1685). Charles Darnley (qua đời sớm). Thông qua cuộc hôn nhân với David Colyear, Bá tước thứ 1 xứ Portmore, Catherine Sedley có hai con trai: David Colyear, Tử tước Milsington (1698–1728/9), kết hôn với Bridget Noel, con gái duy nhất của John Noel (con trai của Baptist Noel, Tử tước Campden thứ 3) và Elizabeth Sherard (góa phụ của Edward Ingram, Tử tước Irvine thứ 2, em gái của Bennet Sherard, Bá tước thứ 1 xứ Harborough, con gái đầu của Bennet Sherard, Nam tước Sherard thứ 2), vào năm 1724. Charles Colyear, Bá tước thứ 2 xứ Portmore (1700–1785), kết hôn với Juliana Hele (góa phụ của Peregrine Osborne, Công tước thứ 3 xứ Leeds, con gái và nữ thừa kế của Roger Hele xứ Halewell. Thông qua con trai, Catherine là bà nội của Elizabeth Collier, vợ của Tiến sĩ Erasmus Darwin, bác sĩ, nhà khoa học, nhà thơ và là ông nội của Charles Darwin. Ghi chú Tham khảo Nguồn tài liệu Liên kết ngoài Nữ Bá tước Anh Bá tước Anh Nữ Nam tước Anh Nam tước Anh Con gái của Tòng Nam tước Bá tước phu nhân Anh Gia tộc Colyear Tình nhân của James II của Anh Tình nhân Vương thất Anh Triều thần Anh Bá tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh Nam tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh Nữ quý tộc Anh có tước hiệu Người Anh thế kỷ 17 Sinh năm 1657 Mất năm 1717
19856671
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20Gi%C3%A1o%20d%E1%BB%A5c%20Gi%E1%BB%9Bi%20t%C3%ADnh%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Cuba
Trung tâm Giáo dục Giới tính Quốc gia Cuba
Trung tâm Giáo dục Giới tính Quốc gia (, CENESEX) là một cơ quan do chính phủ tài trợ được thành lập năm 1989 tại Cuba. Trung tâm này nổi tiếng với việc ủng hộ sự khoan dung đối với các vấn đề LGBT trên đảo. CENESEX nhấn mạnh sự chấp nhận đa dạng tính dục và đã thu hút sự chú ý của quốc tế trong những năm gần đây nhờ các chiến dịch vì quyền của người chuyển giới, bao gồm việc công nhận bản dạng giới của một cá nhân, bất kể giới tính khi sinh và cung cấp phẫu thuật chuyển đổi giới tính do nhà nước tài trợ. Người đứng đầu trung tâm này là Mariela Castro, con gái của chính khách Cuba và cựu chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ Cuba Vilma Espín, và cựu lãnh đạo Cuba Raúl Castro (bản thân ông là em trai của cựu lãnh đạo lâu năm Fidel Castro). Lịch sử Kể từ cuộc cách mạng Cuba đã có nhiều chương trình giáo dục giới tính quốc gia khác nhau do Liên đoàn Phụ nữ Cuba và Bộ Y tế Công cộng Cuba điều phối. Năm 1972, Đoàn Công tác Giáo dục Giới tính Quốc gia () được thành lập đóng vai trò là tổ chức riêng biệt nhằm phát triển và điều phối các loại hoạt động này trong các tổ chức và xã hội Cuba. Từ năm 1977, nó cũng nhận nhiệm vụ đào tạo nhà giáo dục và trị liệu tình dục, chăm sóc chuyên biệt cho người chuyển giới cũng như tư vấn và điều trị rối loạn chức năng tình dục. Năm 1989, Trung tâm Giáo dục Giới tính Quốc gia được thành lập với tư cách là đơn vị kế nhiệm của Đoàn Công tác nói trên, tăng cường công việc nghiên cứu và đào tạo các chuyên gia có trình độ trong lĩnh vực tình dục. Sứ mệnh Sứ mệnh của CENESEX là góp phần "phát triển một nền văn hóa tình dục trọn vẹn, vui vẻ và có trách nhiệm, cũng như thúc đẩy việc thực hiện đầy đủ các quyền tình dục". Trung tâm đóng vai trò chính trong giáo dục liên quan đến biện pháp tránh thai và AIDS. Chuyển đổi giới tính do nhà nước tài trợ Trung tâm đã thúc đẩy việc thông qua luật cung cấp cho người chuyển giới phẫu thuật chuyển đổi giới tính miễn phí và liệu pháp thay thế hormone, bên cạnh việc cấp cho họ giấy tờ tùy thân hợp pháp mới với giới tính đã thay đổi của họ. Một dự thảo luật đã được trình lên Quốc hội Cuba vào năm 2005. Trước khi được thông qua, người ta cho rằng dự luật này sẽ đưa Cuba trở thành quốc gia tiến bộ nhất ở Mỹ Latinh về các vấn đề giới tính. Biện pháp này được thông qua vào tháng 6 năm 2008. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Tình dục Cuba Giáo dục Cuba Giáo dục giới tính Quyền LGBT ở Cuba Tổ chức y tế có trụ sở tại Cuba Khởi đầu năm 1989 ở Cuba Giáo dục ở Cuba
19856675
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202022
VCS mùa giải 2022
VCS mùa giải 2022 là mùa giải thứ 10 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 11 tháng 2 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 24 tháng 4 năm 2022. Giải Mùa Hè sẽ bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 4 tháng 9 năm 2022. Đội quán quân giải Mùa Xuân, GAM Esports, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2022 nhưng GAM đã nhường lại xuất tham dự MSI 2022 cho đội á quân, Saigon Buffalo, để tham gia thi đấu bộ môn thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại SEA Games 31 được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam. GAM Esports cũng đã vô địch giải Mùa Hè, họ cùng á quân của giải, Saigon Buffalo, đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2022. Những thay đổi Các đội Vị trí của Luxury Esports được chuyển cho Team Whales tại giải Mùa Hè. Giải Mùa Xuân Vòng bảng giải Mùa Xuân diễn ra từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 13 tháng 4 năm 2022. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 4 năm 2022. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức King of the Hill, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2022. 2 đội đứng cuối vòng bảng bị giáng xuống chơi giải thăng hạng Mùa Hè. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Giải thăng hạng Mùa Hè Giải thăng hạng Mùa Hè diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5 năm 2022. 4 đội chơi theo thể thức vòng nhánh thắng nhánh thua và tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Hè 2022. Giải Mùa Hè Vòng bảng giải Mùa Hè diễn ra từ ngày 7 tháng 7 đến ngày 21 tháng 8 năm 2024. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 24 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 năm 2022. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp giải Mùa Hè đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2022. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Tham khảo Liên Minh Huyền Thoại năm 2022
19856680
https://vi.wikipedia.org/wiki/Messi%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Messi (định hướng)
Lionel Messi (sinh năm 1987) là cầu thủ bóng đá người Argentina. Messi cũng có thể đề cập đến: Nhân vật Messi Bouli (sinh 1992), cầu thủ bóng đá người Cameroon Biệt danh của Ismail Easa, cầu thủ bóng đá người Maldives Georges Messi (sinh 1980), cầu thủ bóng đá người Cameroon Joaquin Messi (sinh 2002), cầu thủ bóng đá người Argentina Stephane Messi (sinh 1972), tay vợt bóng bàn người Pháp Messi (cầu thủ bóng đá người Brazil), Jamerson Michel da Costa (sinh 1985), cầu thủ bóng đá người Brazil Khác Jaunde-Texte von Karl Atangana und Paul Messi, sách xuất bản năm 1919 bởi Charles Atangana và Paul Messi Messi (phim 2014), phim tài liệu về Lionel Messi Messi (phim 2017), bộ phim chính kịch về bóng đá bằng tiếng Bengali Ấn Độ Messi (báo sư tử), một con báo sư tử được thuần hóa sống với cặp vợ chồng người Nga "Messi", bài hát năm 2016 của rapper người Anh Dappy Messi and Maud, còn được biết tới với tên La Holandesa, phim Hà Lan sản xuất năm 2017
19856683
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i%20tuy%E1%BB%83n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20U-23%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Argentina
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Argentina
Đội tuyển bóng đá Olympic Argentina (U-23 Argentina từ năm 1992) đại diện cho Argentina ở các giải đấu bóng đá quốc tế trong Thế vận hội Olympic và Đại hội thể thao Liên Mỹ. Việc lựa chọn được giới hạn ở những người chơi dưới 23 tuổi, ngoại trừ ba người chơi quá tuổi. Đội được kiểm soát bởi Hiệp hội bóng đá Argentina (AFA). Lần đầu tiên Argentina tham dự các giải đấu Olympic là vào năm 1928, khi đội này là á quân trước nhà vô địch Uruguay tại Thế vận hội được tổ chức ở Amsterdam. Vào thời điểm đó, luật quy định rằng chỉ những đội nghiệp dư mới được thi đấu, vì vậy Argentina (và cả Uruguay) chơi với những cầu thủ cao cấp nên bóng đá khi đó vẫn chưa chuyên nghiệp ở những quốc gia đó Argentina sẽ không tham dự Thế vận hội Olympic cho đến năm 1960 khi đội tuyển này có thành tích đứng thứ 7 riêng biệt. Đội tranh tài với các cầu thủ nghiệp dư trẻ. Sau khi IOC cho phép các cầu thủ chuyên nghiệp tham gia (nhưng giới hạn độ tuổi là 23), Argentina trở lại vào năm 1996 khi đội giành huy chương bạc thứ hai sau khi thua Nigeria trong trận chung kết. Năm 2004 và được huấn luyện bởi Marcelo Bielsa, Argentina đã giành được huy chương vàng đầu tiên với Carlos Tévez cũng là vua phá lưới với 8 bàn thắng. Bốn năm sau, Argentina giành huy chương vàng thứ hai tại Bắc Kinh khi phục thù Nigeria với chiến thắng 1–0 trong trận chung kết đó. Lịch sử Lần tham gia đầu tiên Argentina lần đầu tiên tham dự Thế vận hội Olympic 1928 được tổ chức tại Hà Lan. Mặc dù Thế vận hội chỉ dành cho các đội nghiệp dư, Argentina thi đấu với đội hình cấp cao nên bóng đá trong nước không chuyên nghiệp cho đến năm 1931. Đội tiến vào trận chung kết sau khi đánh bại Hoa Kỳ với tỷ số 11–2 ở vòng đầu tiên và Bỉ (6–3) ở vòng thứ hai. Ở bán kết, đội tuyển quốc gia đã đánh bại Ai Cập với tỷ số 6–0 để giành quyền vào chung kết gặp Uruguay. Trận đầu tiên kết thúc với tỷ số hòa 1-1 nên trận thứ hai phải diễn ra ba ngày sau đó. Ở trận đấu quyết định, Uruguay vô địch giải đấu sau khi đánh bại Argentina 2-1, giành Huy chương Vàng. Đội hình người Argentina gồm Bossio, Bidoglio, Paternóster, Médice, Monti, Evaristo, Carricaberri, Tarasconi, Ferreira, Perduca, Orsi. Tarasconi cũng là vua phá lưới của giải đấu với 11 bàn thắng. Hình ảnh đội Kết quả và lịch thi đấu Người chơi Kỷ lục cạnh tranh Các cuộc thi khác Danh dự Chú thích Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina
19856684
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%9E
P'ari (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli პ, mtavruli Პ) là chữ cái thứ 17 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, პ có giá trị là 80. Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Gruzia ფ Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856691
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arto%20Aas
Arto Aas
Arto Aas (sinh ngày 9 tháng 6 năm 1980) là chính khách người Estonia. Trước đây, ông từng là thành viên của Đảng Cải cách Estonia từ năm 1998 đến năm 2019 và giữ chức vụ làm Bộ trưởng Hành chính công Estonia từ ngày 9 tháng 4 năm 2015 đến ngày 23 tháng 11 năm 2016. Tham khảo Sinh năm 1980 Nhân vật còn sống Bộ trưởng Estonia Chính khách từ Tallinn Chính khách Đảng Cải cách Estonia Chính khách Estonia thế kỷ 21 Cựu sinh viên Đại học Bách khoa Tallinn Thành viên Nghị viện Estonia
19856702
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meiacanthus%20kamoharai
Meiacanthus kamoharai
Meiacanthus kamoharai là một loài cá biển thuộc chi Meiacanthus trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1956. Từ nguyên Từ định danh kamoharai được đặt theo tên của Toshiji Kamohara (1901–1972), nhà ngư học từng làm việc tại Đại học Kochi, người mà tác giả Tomiyama đã mang ơn trong suốt hơn 20 năm nghiên cứu ngư học. Phân bố M. kamoharai là loài đặc hữu của vùng biển phía nam Nhật Bản và cả quần đảo Ryukyu, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m. Mô tả Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở M. kamoharai là 6 cm. Cá đực có tia vây đuôi và tia vây bụng dài hơn cá cái. Trong mùa sinh sản, cá đực thể hiện hai loại màu sắc, "đen thẫm" và "trắng toát", tương ứng được quan sát thấy trong quá trình cạnh tranh giữa hai con đực và sự gia tăng động dục. Sinh thái Cá đực là loài đa thê, nhưng độc quyền chăm sóc trứng của nhiều lứa trong tổ. Màn tán tỉnh của cá cái đối với cá đực diễn ra thường xuyên vào tháng 6 và tháng 7, trong khi cá đực tán tỉnh cá cái mạnh nhất là vào tháng 8. Trứng của M. kamoharai có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ. Cá trưởng thành ăn tảo và động vật phù du. Các loài Meiacanthus đều có tuyến nọc độc trong răng nanh. Do đó, chúng là hình mẫu để nhiều loài khác bắt chước theo, gọi là bắt chước kiểu Bates (loài không độc bắt chước kiểu hình, hành vi của một loài có độc). M. kamoharai được bắt chước bởi cá mào gà Petroscirtes breviceps. Tham khảo K Cá Thái Bình Dương Cá Nhật Bản Động vật được mô tả năm 1956
19856707
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%9F
Zhani (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ჟ, mtavruli Ჟ) là chữ cái thứ 18 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ჟ có giá trị là 90. ჟ thường đại diện cho âm xát ngạc cứng hữu thanh , giống như cách phát âm của trong "vision". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Kirin Zhe Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856708
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202021
VCS mùa giải 2021
VCS mùa giải 2021 là mùa giải thứ 9 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Đông. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 22 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 18 tháng 4 năm 2021. Giải Mùa Đông sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 11 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 26 tháng 12 năm 2021. Đội quán quân giải Mùa Xuân, GAM Esports, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2021 nhưng do các hạn chế đi lại trên toàn quốc liên quan đến sự ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam, GAM không thể tham gia MSI. CERBERUS Esports đã vô địch giải Mùa Đông, mùa giải được tổ chức thay thế cho giải Mùa Hè đã bị hủy do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam. Những thay đổi Giải đấu Giải Mùa Hè đã bị hủy do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam và sau đó được thay thế bằng giải Mùa Đông. Điều đó đồng nghĩa với việc 2 đại diện của VCS không thể tham dự Chung kết thế giới 2021. Và đây cũng là lần thứ 2 liên tiếp, đại diện của VCS không thể tham dự Chung kết thế giới, sau lần trước đó vào năm 2020. Giải thăng hạng Mùa Xuân Giải thăng hạng Mùa Xuân diễn ra từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 11 năm 2020. 4 đội chơi theo thể thức vòng nhánh thắng nhánh thua và tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Xuân 2021. Giải Mùa Xuân Vòng bảng giải Mùa Xuân diễn ra từ ngày 22 tháng 1 đến ngày 4 tháng 4 năm 2021. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 18 tháng 4 năm 2021. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng cuối vòng bảng bị giáng xuống chơi giải thăng hạng Mùa Hè. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Giải thăng hạng Mùa Hè Giải thăng hạng Mùa Hè diễn ra từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 5 năm 2021. 4 đội chơi theo thể thức vòng nhánh thắng nhánh thua và tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Đông 2021. Giải Mùa Đông Vòng bảng giải Mùa Đông diễn ra từ ngày 16 tháng 11 đến ngày 17 tháng 12 năm 2021. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 12 năm 2021. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Tham khảo Liên Minh Huyền Thoại năm 2021
19856712
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%A0
Rae (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli რ, mtavruli Რ) là chữ cái thứ 19 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, nó có giá trị 100 რ thường đại diện cho âm rung lợi hữu thanh , giống như cách phát âm của trong "road". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Latinh R Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856726
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Qu%E1%BB%91c%20ph%C3%B2ng%20Cuba
Trường Đại học Quốc phòng Cuba
Trường Đại học Quốc phòng Cuba () là một học viện quân sự của Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba đặt tại Havana và là trung tâm giáo dục đại học thuộc Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng (MINFAR). Trường này dưới sự lãnh đạo của Chuẩn tướng Manuel de Jesús Rey Soberón. Tổng quan Nó được thành lập vào ngày 30 tháng 10 năm 1990 và chịu trách nhiệm về giáo dục sau đại học của quân đội Cuba. Trong số các chức năng của CODEN là chỉ đạo và phát triển quá trình giáo dục về chuyên ngành An ninh và Quốc phòng. Nhiều học sinh của trường đến từ Trường Trung ương Nico Lopez của Đảng Cộng sản Cuba. Vào thời điểm thành lập, nó được mô phỏng theo Trường Đại học Quân đội Canada ở Toronto và cung cấp chương trình giảng dạy tương tự như của Đại học Quốc phòng Hoa Kỳ tại Fort McNair. Đây là cấp độ cao hơn đầu tiên của MINFAR nhận được trạng thái chứng nhận do Ủy ban Kiểm định Quốc gia trực thuộc Bộ Giáo dục Đại học cấp. CODEN hiện đang quản lý 15 chương trình nghiên cứu sau đại học. Giảng viên của trường này bao gồm các quan chức quân sự cũng như các giáo sư dân sự. Trong số những vị khách nổi tiếng đến thăm trường này có Bộ trưởng Quốc phòng Leopoldo Cintra Frías, Tổng Tham mưu trưởng Álvaro López Miera và Đại sứ Iran Kambiz Sheikh Hassani. Gần năm nghìn thường dân và binh lính Cuba đã tốt nghiệp CODEN kể từ khi thành lập trường. Cựu sinh viên tiêu biểu Gil Ramón González González, Thứ trưởng Bộ Giáo dục Đại học hiện nay Đại tá Marino Alberto Murillo Jorge, Trưởng ban Thường trực về Thực hiện và Phát triển Cải thiện mô hình kinh tế và xã hội Tham khảo Giáo dục Cuba Học viện quân sự Cuba Khởi đầu năm 1990 ở Cuba Đại học và cao đẳng thành lập năm 1990
19856737
https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202020
VCS mùa giải 2020
VCS mùa giải 2020 là mùa giải thứ 8 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 31 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 18 tháng 4 năm 2020. Giải Mùa Hè sẽ bắt đầu vào ngày 19 tháng 6 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 5 tháng 9 năm 2020. Đội quán quân giải Mùa Xuân, Team Flash, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2020 nhưng MSI 2020 đã bị hủy do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 trên toàn thế giới. Team Flash cũng đã vô địch giải Mùa Hè, họ cùng á quân của giải, GAM Esports, đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2020 nhưng 2 đại diện của VCS cũng không thể tham dự do đại dịch COVID-19. Những thay đổi Các đội Vị trí của Lowkey Esports được chuyển cho Team Secret từ tuần thi đấu thứ ba giải Mùa Xuân. Adonis Esports đổi tên thành V Gaming Adonis. Giải thăng hạng Mùa Xuân Giải thăng hạng Mùa Xuân diễn ra từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 2019. 4 đội chơi theo thể thức vòng nhánh thắng nhánh thua và tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Xuân 2020. Giải Mùa Xuân Vòng bảng giải Mùa Xuân diễn ra từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 5 tháng 4 năm 2020. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 4 đội dẫn đầu vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 18 tháng 4 năm 2020. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức King of the Hill, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng cuối vòng bảng bị giáng xuống chơi giải thăng hạng Mùa Hè. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Giải thăng hạng Mùa Hè Giải thăng hạng Mùa Hè diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 5 năm 2020. 4 đội chơi theo thể thức vòng nhánh thắng nhánh thua và tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp sẽ thăng hạng lên thi đấu VCS Mùa Hè 2020. Giải Mùa Hè Vòng bảng giải Mùa Hè diễn ra từ ngày 19 tháng 6 đến ngày 16 tháng 8 năm 2020. 8 đội chơi tổng cộng 56 trận theo thể thức vòng tròn 2 lượt và tất cả các trận đấu vòng bảng được thi đấu theo thể thức Bo3. 6 đội dẫn đầu vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 19 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9 năm 2020. Vòng loại trực tiếp thi đấu theo thể thức nhánh thẳng nhánh thua, tất cả các trận đấu được thi đấu theo thể thức Bo5. 2 đội đứng cuối vòng bảng bị giáng xuống chơi giải thăng hạng Mùa Xuân 2021. Vòng bảng Vòng loại trực tiếp Tham khảo Liên Minh Huyền Thoại năm 2020
19856752
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93n%20%C4%91i%E1%BB%81n%20cao%20su%20Michelin
Đồn điền cao su Michelin
Đồn điền cao su Michelin (tiếng Anh: Michelin Rubber Plantation) là một đồn điền nằm ở gần huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, cách Sài Gòn 72 km về phía Tây Bắc. Đồn điền này được công ty Michelin thành lập năm 1925 và có diện tích . Đây là đồn điền cao su lớn nhất Việt Nam. Đồn điền nằm ở khoảng giữa biên giới Việt Nam – Campuchia và Sài Gòn, và do đó đây là căn cứ và địa điểm đóng quân quan trọng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) và sau này là Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN). Đồn điền này là một nguồn thu quan trọng của Chính phủ miền Nam Việt Nam và Công ty Michelin được cho là đã phả trả nợ cho QGP để duy trì đồn điền hoạt động trong chiến tranh. Lực lượng Hoa Kỳ có nghĩa vụ bồi thường cho Michelin về những thiệt hại gây ra cho cây cao su trong quá trình hoạt động tại đồn điền. Chiến tranh Việt Nam Liên quân Hoa Kỳ và Lục quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thường xuyên tiến hành các hoạt động càn quét lực lượng cộng sản đồn trú trong đồn điền. Chiều tối ngày 27 tháng 11 năm 1965, Trung đoàn 272 QGP ập vào tấn công Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 Lục quân VNCH, giết gần hết trung đoàn và 5 cố vấn Hoa Kỳ. Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 2 năm 1966, Lữ đoàn 2 và 3, Sư đoàn 1 Bộ binh Lục quân Hoa Kỳ mở Chiến dịch Mastiff, một chiến dịch tìm và diệt trong và xung quanh đồn điền. Từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 14 tháng 5 năm 1967, Lữ đoàn 3, Sư đoàn 4 Bộ binh Lục quân Hoa Kỳ, Lữ đoàn 196 Bộ binh, Lữ đoàn 173 Dù, Trung đoàn Thiết giáp 11, Tiểu đoàn 1 và 5 Thủy quân lục chiến VNCH, và các Tiểu đoàn 35 và 36 Biệt động quân VNCH phát động Chiến dịch Junction City, bao gồm cả các chiến dịch tại đồn điền. Từ ngày 17 tháng 5 đến ngày 7 tháng 12 năm 1967, Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 Bộ binh tiến hành Chiến dịch Diamond Head, một cuộc hành quân tìm và diệt trong đồn điền và các vùng lân cận. Tháng 8 và tháng 9 năm 1968, đồn điền là nơi giao tranh giữa lực lượng Hoa Kỳ và QĐNDVN giữa bối cảnh quân miền Bắc phát động Sự kiện Tết Mậu Thân đợt ba. Ngày 17 đến ngày 24 tháng 3 năm 1969, Sư đoàn 1 Bộ binh, Trung đoàn 11 Thiết giáp, Sư đoàn 1/4 Kỵ binh tiến hành mở Chiến dịch Atlas Wedge trong đồn điền này. Sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, đầu tiên là đồn điền, rồi sau đó là nhà máy ở Sài Gòn, đã được chính quyền mới quốc hữu hóa. Xem thêm Bến Củi Chú thích Liên kết ngoài Bản đồ đồn điền 125 năm cao su 'cho vàng' ở Việt Nam - Kỳ 6: Thị trấn cao su trù phú Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Chiến trường Việt Nam
19856753
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20M%E1%BA%A1nh%20D%C5%A9ng
Trương Mạnh Dũng
Trương Mạnh Dũng, (sinh năm 1970), là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân đoàn 12, Bộ Quốc phòng. Lịch sử thụ phong quân hàm Tham khảo Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong năm 2023
19856754
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ahmed%20Hachani
Ahmed Hachani
Ahmed Hachani (; sinh ngày 4 tháng 10 năm 1956) là chính khách người Tunisia. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm Thủ tướng Tunisia kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2023. Tham khảo
19856760
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20Nam
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – Nam
Giải đấu bóng đá nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức từ ngày 8 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2010 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Địa điểm Tám địa điểm đã được sử dụng trong giải đấu. Bốc thăm Lễ bốc thăm cho nội dung bóng đá nam đã được tổ chức vào ngày 7 tháng 10 năm 2010 tại khách sạn Garden ở Quảng Châu, Trung Quốc. Các đội tuyển được xếp hạt giống theo thứ hạng chung cuộc tại Đại hội Thể thao châu Á lần trước. Ả Rập Xê Út, Iraq (đương kim á quân năm 2006) và Tajikistan là ba đội cũng có mặt trong danh sách đăng ký tham dự từ trước, nhưng đã rút lui trước buổi lễ bốc thăm. Đội hình Vòng bảng Hai đội đứng đầu mỗi bảng đấu cùng bốn đội xếp thứ ba có thành tích tốt nhất lọt vào vòng 1/8. Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Xếp hạng các đội đứng thứ ba Bốn đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất giành quyền vào vòng 1/8. Vòng đấu loại trực tiếp Sơ đồ Vòng 16 đội Tứ kết Bán kết Trận tranh huy chương đồng Trận tranh huy chương vàng Đội vô địch Cầu thủ ghi bàn Bảng xếp hạng chung cuộc Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Kết quả trên RSSSF Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
19856774
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tupolev%20ANT-53
Tupolev ANT-53
Tupolev ANT-53 là một dự án phát triển máy bay chở khách dân dụng vào cuối thập niên 1930 của Cục Thiết kế Tupolev ở Liên Xô. Phát triển và thiết kế Tupolev ANT-53 được phát triển dựa trên máy bay ném bom hạng nặng Tupolev TB-7, khiến nó trở thành máy bay dân dụng có khả năng tương đương với Boeing 307 Stratoliner của Mỹ. Khoang điều áp của ANT-53 có thể chứa 48 hành khách hoặc 6 tấn hàng hóa. Máy bay trang bị 4 động cơ Mikulin AM-34FRNV hoặc 4 động cơ Tumansky M-85. Tuy nhiên, quá trình phát triển đã bị hủy bỏ do thiếu hụt kỹ sư trong lĩnh vực hàng không vũ trụ sau sự kiện Đại thanh trừng năm 1937-1938. Tham khảo Máy bay cánh giữa Máy bay Tupolev Mô tả ngắn giống như Wikidata Bài có mô tả ngắn
19856778
https://vi.wikipedia.org/wiki/Faisal%20II
Faisal II
Faisal II (, al-Malik Fayṣal al-thānī) (2 tháng 5 năm 1935–14 tháng 7 năm 1958) là vị vua cuối cùng của Iraq, ông trị vì từ ngày 4 tháng 4 năm 1939 cho đến tháng 7 năm 1958, khi ông bị giết trong một cuộc đảo chính. Vụ ám sát này đánh dấu sự kết thúc của chế độ quân chủ Hashemite kéo dài 37 năm ở Iraq. Iraq sau đó trở thành một nước cộng hòa. Tham khảo Sinh năm 1935 Mất năm 1958 Iraq thế kỷ 20 Vua thiếu nhi Vua Iraq Người Baghdad
19856781
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Tambor%20%28SS-198%29
USS Tambor (SS-198)
USS Tambor (SS-198) là một tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ, chiếc dẫn đầu của được chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá quân Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra và đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 33.479 tấn. Con tàu được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu vào đầu năm 1945 để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó xuất biên chế năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1959. Tambor được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ General Motors-Winton dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên vào khoảng đầu năm 1943, Tambor được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch khi đại tu. Tambor được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 16 tháng 1, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 12, 1939, được đỡ đầu bởi cô Lucia Ellis, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 6, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John William Murphy Jr. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Tambor được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 33.479 tấn. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-198 Webcast Author Robert Schultz Interview Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu thủy năm 1938 Tàu thủy năm 1939 Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
19856783
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Tautog%20%28SS-199%29
USS Tautog (SS-199)
USS Tautog (SS-199) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ Cá bàng chài. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười ba chuyến tuần tra và đánh chìm được 26 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 72.606 tấn, xếp thứ hai về số lượng tàu và thứ bảy về tải trọng, trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh, nên được mang biệt danh "The Terrible T". Con tàu được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu vào đầu năm 1945 để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó xuất biên chế năm 1945, và được sử dụng làm tàu huấn luyện dự bị cố định cho đến khi bị bán để tháo dỡ vào năm 1959. Tautog được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng mười bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ General Motors-Winton dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên vào khoảng đầu năm 1943, Tautog được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch khi đại tu. Tautog được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 1 tháng 3, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 1, 1940, được đỡ đầu bởi bà Hallie N Edwards, phu nhân Đại tá Hải quân Richard S. Edwards, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 5. Con tàu được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 7, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Joseph Harris Willingham. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Tautog được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng mười bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 26 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 72.606 tấn, xếp thứ hai về số tàu và hạng bảy về tải trọng, trong số tàu ngầm Hoa Kỳ có thành tích nổi bật nhất trong chiến tranh. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-199 Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu hiện diện trong vụ tấn công Trân Châu Cảng Tàu thủy năm 1940
19856785
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Tautog
USS Tautog
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Tautog, theo tên một loài trong họ Cá bàng chài: là một hạ thủy năm 1940 và rút đăng bạ năm 1959 là một hạ thủy năm 1967 và rút đăng bạ năm 1997 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19856795
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frank%20Herbert
Frank Herbert
Franklin Patrick Herbert Jr. (8 tháng 10 năm 1920 - 11 tháng 2 năm 1986) là một tác gia khoa học viễn tưởng người Mỹ nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Dune năm 1965 và năm phần tiếp theo của tiểu thuyết này. Mặc dù nổi tiếng nhờ tiểu thuyết, ông cũng viết truyện ngắn và làm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh gia, nhà phê bình sách, nhà tư vấn sinh thái và giảng viên. Tác phẩm Dune saga, lấy bối cảnh ở tương lai xa và diễn ra trong nhiều thiên niên kỷ, khám phá các chủ đề phức tạp, chẳng hạn như sự tồn tại lâu dài của loài người, sự tiến hóa của loài người, khoa học hành tinh và sinh thái, cũng như sự giao thoa giữa tôn giáo, chính trị, kinh tế và quyền lực trong một tương lai nơi loài người đã phát triển du hành giữa các vì sao từ lâu và định cư ở hàng nghìn thế giới. Dune là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng bán chạy nhất mọi thời đại, và bộ truyện được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của thể loại khoa học viễn tưởng. Bộ truyện sau đó được chuyển thể thành loạt phim Dune (2021–). Các tác phẩm khác của ông gồm The Godmakers (1972), The Dosadi Experiment (1977), The White Plague (1982) và những cuốn sách ông cộng tác viết cùng Bill Ransom: The Jesus Incident (1979), The Lazarus Effect (1983) và The Ascension Factor (1988),là phần tiếp theo của cuốn tiểu thuyết năm 1966 của Herbert Destination: Void. Ông cũng giúp khởi đầu sự nghiệp của Terry Brooks với đánh giá rất tích cực về cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Brooks, The Sword of Shannara, in 1977. Tham khảo Tiểu thuyết gia Mỹ Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 20 Nhà bảo vệ môi trường Mỹ Nam tiểu thuyết gia Mỹ Nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ Chết vì ung thư tuyến tụy Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Khoa học Viễn tưởng
19856804
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Thi%C3%AAn%20H%E1%BB%B1u
Trường Thiên Hựu
Trường Thiên Hựu (Huế), còn có tên tiếng Việt là Thiên Hữu Học Đường, là trường dòng tư thục trung học ở Huế, dạy bằng Tiếng Pháp, thuộc Giáo Hội Công Giáo, thành lập năm 1933 và đóng cửa năm 1975. Trường còn gọi là Providence (Institut de la Providence). Đây là trường dòng công giáo trung học đầu tiên của Việt Nam, được mở ra với mục đích cung cấp giáo dục tương đương giáo dục Pháp để học sinh lấy bằng tú tài Pháp (baccalaureat). Cơ sở vật chất của trường nay được sử dụng bởi trường Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Quá trình phát triển Năm 1932, sau khi Vua Bảo Đại kế vị Vua Khải Định lên ngôi, Đức Giám Mục Allys của Huế đưa ra đề xuất thành lập trường trung học Công Giáo tại Huế, giống theo giáo dục bên Pháp. Ngày 15 tháng 9 năm 1933, Đức Cha Chabanon khai giảng một lớp 6 gồm hai ban, thêm hai lớp dự bị, lớp 7 và lớp 8, tổng cộng 132 học sinh. Tháng 10 năm 1933, ông Ngô Đình Thục làm Giám đốc trường. Từ năm 1933 cho tới 1939, thêm bốn tòa nhà nữa được hoàn thành. Đội ngũ giáo viên ban đầu gồm nhiều giáo sĩ Pháp và Việt Nam, trong đó có cả ông Tạ Quang Bửu (dạy toán, lý, hóa và các môn khoa học tự nhiên khác) (sau này là Bộ Trưởng Bộ Đại Học Việt Nam). Trường được đánh giá là lớn, tiện nghi hiện đại, giáo viên giỏi nổi tiếng ở miền Trung Việt Nam. Trường thu hút học sinh của toàn miền Trung và miền Nam, nhất là con các gia đình Công giáo. Từ 1945 đến 1963, nhiều cựu giáo viên và học sinh của trường rời trường trở nên nổi tiếng, như Ngô Đình Thục, Nguyễn Văn Lập (người sáng lập Đại học Công giáo ở Đà Lạt), Lý Chánh Trung, hoặc sang giảng dạy tại các trường khác như Đại học Huế. Một số cựu học sinh nổi tiếng của trường này bao gồm: Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, Tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Phúc Bảo Ân con của Vua Bảo Đại, Dương Thiệu Tống (nguyên hiệu trưởng Trường Quốc học Huế), Tôn Thất Thiện. Link ngoài Ảnh Trường Thiên Hựu năm 1968. Ảnh Trường Thiên Hựu những năm 1950. Chú thích Nhà Nguyễn Giáo dục Thừa Thiên Huế Công trình xây dựng Huế Trường trung học tại Thừa Thiên Huế Trường Trung học ở Liên bang Đông Dương
19856806
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%ABa%20L%E1%BB%97i
Thừa Lỗi
Thừa Lỗi (Tiếng Trung: 丞磊 Cheng Lei, bính âm: Chéng Lěi, tiếng Anh: Ryan Cheng), sinh ngày 18 tháng 12 năm 1993 tại thành phố Đông Quản, tỉnh Quảng Đông, tốt nghiệp Khoa Thiết kế Môi trường của Trường Thiết kế Đô thị thuộc Học viện Mỹ thuật Hà Bắc, và là một diễn viên ở Trung Quốc Đại lục. Năm 2018, anh gia nhập làng giải trí khi tham gia bộ phim hài giả tưởng lãng mạn "Anh là con quay của em". Cùng năm đó, anh đóng vai chính trong bộ phim hành động hồi hộp cổ trang "Kim Luân tàng yêu truyện" được phát hành. Năm 2019, mini-drama tình cảm thành thị "Chỉ là chia tay thôi mà - Phần 2" được phát sóng. Năm 2020, bộ phim hài dành cho giới trẻ "Chúng ta không phải anh em" do anh đóng chính được phát hành. Năm 2021, anh tham gia bộ phim cổ trang lãng mạn "Hoàng hậu công lược" và bộ phim cổ trang lãng mạn "Huynh trưởng, xin chấm dứt khế ước đi!". Năm 2022, anh đóng vai chính trong bộ phim cổ trang giả tưởng "Thái tử phi hai mặt" và bộ phim ngắn cổ trang "Hư Nhan". Năm 2023, bộ phim cổ trang tình cảm "Vân Chi Vũ" được phát sóng. Tiểu sử Thừa Lỗi sinh ra  vào ngày 18 tháng 12 năm 1993 ở thành phố Đông Quản, tỉnh Quảng Đông, nơi anh học tập và lớn lên. Anh là người sôi nổi và vui vẻ từ khi còn nhỏ, thích thể thao và kết bạn. Năm 2013, anh được nhận vào Học viện Mỹ thuật Hà Bắc, chuyên ngành Thiết kế Môi trường. Khi còn đi học, vì giúp đỡ một người bạn là diễn viên nên anh và bạn cùng phòng đã tham gia  đóng vai quần chúng cho bộ phim của người bạn này. Tuy nhiên, Thừa Lỗi được đạo diễn đánh giá cao và mời anh tham gia diễn xuất đặc biệt, từ đó anh đã gia nhập Showbiz. Sự nghiệp Ngày 10 tháng 3 năm 2018, bộ phim hài giả tưởng lãng mạn "Anh là con quay của em" với sự tham gia của Trương Kỳ đã được phát hành, trong đó anh đóng vai nam diễn viên chính Lạc Vũ Phong. Ngày 7 tháng 6, bộ phim hành động hồi hộp cổ trang "Kim Luân tàng yêu truyện" được phát hành độc quyền trên Youku, trong đó anh đóng vai Hoàng đế Thác Bạt Hồng. Ngày 2/9, anh đóng chung với Thạch Vũ Tình và Trương Địch trong bộ phim hành động lãng mạn hồi hộp "Phong vân Poker - Câu đố chết người" được phát sóng độc quyền trên iQiyi Video. Ngày 27 tháng 12, bộ phim võ thuật lãng mạn "Thiếu nữ hiệp chi trường sinh quyết" với sự tham gia của Lưu Hiểu Hàn đã được phát sóng độc quyền trên Tencent Video. Ngày 23 tháng 5 năm 2019, bộ phim truyền hình ngắn về tình yêu thành thị "Chỉ là chia tay thôi mà - Phần 2" với sự tham gia của Đào Hạo Kinh và Đinh Ngân Tài đã được phát sóng độc quyền trên Sohu Video. Trong phim, anh vào vai nhân vật cáu kỉnh Trần Hy, nhân cách thứ 3 của nam chính Trương Lộ. Ngày 17 tháng 7, bộ phim truyền hình dành cho giới trẻ "Incredible Sunny" với sự tham gia của Phan Hữu Thành, Triệu Chiêu Nghị và những người khác đã được phát sóng độc quyền trên Mango TV. Trong phim, anh diễn Kiều Tuấn Huy, con trai cả của Tập đoàn nhà họ Kiều. Vào ngày 3 tháng 2 năm 2020, bộ phim hài dành cho giới trẻ "Chúng ta không phải anh em" với sự tham gia của Lục Tư Hằng đã được phát sóng độc quyền trên Tencent Video, trong đó anh đóng vai lập trình viên kiêu ngạo Tổ Ba. Ngày 9 tháng 12, bộ phim "Bí mật của Bella" do anh đóng chính cùng bạn diễn Tôn Giai Kỳ đã được phát hành trực tuyến, trong đó anh đóng vai Lý Dịch Thần, một nhà thiết kế nghèo. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2021, bộ phim lãng mạn thành thị "Bạn trai Husky của tôi" với sự tham gia của Trần Phương Đồng đã được phát sóng trên Mango TV. Trong bộ phim này, Thừa Lỗi vào vai tổng tài 'bá đạo' Bạch Kình Vũ. Ngày 30 tháng 4, bộ phim lãng mạn cổ trang "Hoàng hậu công lược" với sự tham gia của đối tác Vương Lộ Thanh đã được phát sóng, trong đó anh đóng vai vị vua độc ác Cảnh Thanh. Ngày 6 tháng 8, bộ phim lãng mạn cổ trang "Hoàng hậu công lược: Hoàng hậu thật giả" với sự tham gia của Vương Lộ Thanh đã được phát sóng trên Mango TV. Ngày 18 tháng 8, bộ phim cổ trang lãng mạn "Hoàng hậu công lược 2" do anh đóng chính đã ra mắt. Ngày 6 tháng 10, bộ phim cổ trang giả tưởng "Bổn cô nương không phụng bồi nữa đâu" với sự tham gia của bạn diễn Trần Lộ Thiến được ra mắt trên Mango TV. Ngày 31 tháng 10, bộ phim cổ trang giả tưởng "Hôm nay ta đã lên làm Thái hậu chưa" với sự tham gia của bạn diễn Trần Lộ Thiến đã được phát sóng trên Mango TV, trong đó anh đóng vai Hoàng đế Tề Vũ. Ngày 27 tháng 11, bộ phim truyền hình lãng mạn cổ trang có sự tham gia của Trình Miểu  "Huynh trưởng, chấm dứt khế ước đi!" bắt đầu phát sóng và anh đóng vai Lãnh Diệu Tổ, thương gia số một Nam Sơ. Vào ngày 23 tháng 7 năm 2022, bộ phim giả tưởng cổ trang "Thái tử phi hai mặt" do Kha Dĩnh  đóng chính đã được ra mắt trên Mango TV. Anh đóng vai Hoàng tử Sơ Vũ trong phim. Bộ phim giả tưởng "Hoàng hậu bách biến của ta" được chiếu ra mắt trên Mango TV vào ngày 29 tháng 7, trong đó anh đóng vai Hoàng đế Tề Vũ. Ngày 23 tháng 9, bộ phim truyền hình ngắn cổ trang "Hư Nhan" với sự tham gia của Kha Dĩnh và Vương Tắc Hiên đã được phát sóng trên Mango TV. Trong bộ phim này, anh vào vai vị tướng quân ít nói nhưng thâm tình Tiêu Hàn Thanh. Vào ngày 15 tháng 12, bộ phim truyền hình hồi hộp "Thế giới bí mật của người vợ" đóng chung với Lâm Tử Lân và Hoàng Thao đã được phát sóng trên Mango TV. Ngày 26 tháng 12, bộ phim cổ trang "Học viện trên núi Cốc Viễn" với sự tham gia của bạn diễn Vương Nhã Giai đã được phát sóng trên Tencent Video. Anh vào vai Đường Văn Khởi, con trai viện trưởng Học viện Cốc Viễn. Vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, bộ phim lãng mạn cổ trang "Nhan Tâm Ký" với sự tham gia của La Vân Hi và Tống Dật bắt đầu quay, và anh đóng vai tướng quân Thương Biệt Ly trong bộ phim này. Ngày 21 tháng 6, anh đóng chung với Cao Hàn Vũ và Tống Nghiên Phi trong bộ phim tình cảm thành thị có sự tham gia "Phương pháp khám phá tình yêu" được phát sóng trên Mango TV, trong đó anh đóng vai Cao Lĩnh, thư ký và bạn thân của nam chính Mục Hưu Luân. Ngày 2 tháng 9, anh đóng chung với Ngu Thư Hân và Trương Lăng Hách trong bộ phim cổ trang "Vân Chi Vũ" được phát sóng trên iQiyi Video, trong đó anh đóng vai Cung Thượng Giác, đứng hàng thứ hai trong Cung Môn. Vào ngày 31 tháng 12, anh tham gia đêm Thịnh điển 2024  của đài Đông Phương có chủ đề Mộng viên Đông Phương, hát ca khúc "Có chút ngọt ngào" cùng Điền Hi Vi. Phim truyền hình Phim điện ảnh Tham khảo Diễn viên Trung Quốc
19856810
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gh%E1%BA%BF%20v%C4%83n%20ph%C3%B2ng
Ghế văn phòng
Ghế văn phòng, hay còn gọi là ghế làm việc, là loại ghế được thiết kế riêng để sử dụng tại bàn làm việc trong văn phòng. Nhu cầu sử dụng ghế văn phòng xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ 19 khi ngày càng nhiều công nhân làm việc tại bàn. Do đó, nhu cầu về loại ghế chuyên dụng cho công việc này cũng ngày càng cao. Kết quả là những chiếc ghế văn phòng đầu tiên đã được ra đời với những tính năng như khả năng xoay, điều chỉnh độ cao và có bánh xe để di chuyển dễ dàng. Ghế bánh xe di chuyển tốt trên sàn cứng hoặc thảm chuyên dụng. Bánh xe có thể làm hỏng sàn gỗ nếu không có thảm lót. Ghế xoay giúp nhân viên di chuyển linh hoạt trong không gian nhỏ. Lịch sử Năm 1505, một quý tộc ở Nuremberg tên là Martin Löffelholz von Kolberg đã vẽ ý tưởng về chiếc ghế xoay có bánh xe. Ông ghi chép lại trong cuốn sách về các phát minh của mình, gọi là Codex Löffelholz, ở trang 10r. Về sau, nhà tự nhiên học Charles Darwin cũng gắn bánh xe vào ghế làm việc của mình để di chuyển nhanh hơn tới các mẫu vật nghiên cứu. Vào giữa thế kỷ 19, ngành vận tải đường sắt ra đời, đã thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng quy mô, thoát khỏi mô hình kinh doanh gia đình truyền thống vốn ít chú trọng khâu quản trị. Nhu cầu về đội ngũ nhân viên hành chính lớn mạnh xuất hiện để đáp ứng việc xử lý công việc liên quan đến đơn hàng, sổ sách kế toán và thư từ. Nhận thức về môi trường làm việc, công nghệ và thiết bị cũng được chú trọng nhằm nâng cao năng suất. Nhu cầu này dẫn đến sự ra đời của ghế văn phòng. Năm 1849, nhà phát minh người Mỹ Thomas E. Warren đã thiết kế ghế bành lò xo hướng tâm. Chiếc ghế này do công ty American Chair Company ở Troy, New York sản xuất, và được trình làng lần đầu tiên vào năm 1851 tại Triển lãm Lớn (Great Exhibition) ở Luân Đôn. Mãi đến khoảng năm 1850, một nhóm kỹ sư ở Hoa Kỳ mới bắt đầu nghiên cứu cách thức cải thiện sức khỏe và thư giãn bằng việc sử dụng ghế, tập trung vào tư thế và chuyển động của người ngồi. Các loại Ghế văn phòng hiện nay có nhiều loại, mỗi loại phù hợp với những nhu cầu sử dụng khác nhau. Loại "task chair" được xem là cơ bản nhất, phù hợp cho công việc đơn giản. Do cấu tạo không có phần đệm hỗ trợ thắt lưng và tựa đầu, "task chair" không thích hợp để ngồi lâu, thường chỉ tối đa vài tiếng. Tuy nhiên, bù lại, loại ghế này mang đến không gian cử động thoải mái hơn so với các dòng ghế cao cấp. Với thiết kế ôm trọn phần lưng, ghế văn phòng lưng tựa vừa (mid-back chair) hỗ trợ cột sống hiệu quả hơn so với ghế task chair. Khi sử dụng ghế có thiết kế công thái học, người dùng có thể ngồi thoải mái trong vòng bốn tiếng hoặc hơn. Một số loại ghế lưng tựa vừa còn có tính linh hoạt, cho phép người dùng tùy chỉnh thêm phần tựa đầu nếu cần thiết. Với thiết kế ôm sát phần lưng và đầu, ghế văn phòng tựa lưng cao (executive hay full-back chair) giúp người dùng cảm thấy thoải mái khi ngồi làm việc trong nhiều giờ liền. Nhiều ghế thuộc dòng này có thể sử dụng liên tục tám tiếng hay thậm chí nhiều hơn. Những người làm văn phòng có chiều cao và cân nặng trên mức trung bình sẽ cần loại ghế có kích thước rộng lớn cùng kết cấu vững chãi hơn hẳn so với các mẫu ghế thông thường. Công thái học Kể từ thập niên 1970, công thái học đã trở thành yếu tố then chốt trong việc thiết kế ghế văn phòng. Ngày nay, các loại ghế làm việc thường có chức năng điều chỉnh độ cao của ghế ngồi, tay vịn, tựa lưng và phần hỗ trợ lưng để phòng ngừa các vấn đề như chấn thương lặp đi lặp lại (RSI) và đau lưng do ngồi lâu. Các tiêu chuẩn áp dụng cho thiết kế và kiểm tra ghế văn phòng bao gồm: EN 1335:2012 EN 1728:2012 ANSI/BIFMA X 5.1 DIN EN 1335 DIN 4551 AS/NZS 4438 Chú thích Đọc thêm Olivares, Jonathan. A Taxonomy of Office Chairs. London: Phaidon Press, 2011. Liên kết ngoài A Short History of the Birth and Growth of the American Office Ghế Dụng cụ văn phòng Công thái học
19856811
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91%20Nga%20%28ca%20s%C4%A9%29
Tố Nga (ca sĩ)
Tố Nga (tên đầy đủ là Nguyễn Tố Nga) sinh ngày 11 tháng 12 năm 1976 tại xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là ca sĩ Việt Nam, được phong Nghệ sĩ ưu tú vào năm 2016. Hiện cô là ca sĩ của Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam. Sự nghiệp Năm 1997, sau khi tốt nghiệp Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Hà Tĩnh, với thành tích đã đạt được, Tố Nga đã được Ban Giám hiệu nhà trường và Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh giới thiệu học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia). Cũng trong năm đó, chị tiếp tục thi tuyển vào Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội (nay là Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội), sau đó tốt nghiệp vào năm 1999. Cùng năm này, Tố Nga giành giải ba tại Cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội và được đặc cách vào làm việc tại Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam. Năm 2019, Tố Nga công bố sáng tác đầu tay của mình là "Thương quê" phổ nhạc từ lời thơ của nhà thơ Phương Thảo. Năm 2021, bộ phim ca nhạc “Điều không thể mất” do Tố Nga đảm nhiệm vai trò giám đốc sản xuất và học trò - Á quân giọng hát hay Hà Nội 2020 Lê Minh Ngọc đảm nhiệm vai chính được phát sóng trên Đài truyền hình Việt Nam. Tháng 11 nắm 2022, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Tố Nga tổ chức Liveshow âm nhạc lấy tên là “Dòng sông đa tình”. Tháng 9 năm 2023, Tố Nga được vinh danh trong liveshow Con đường âm nhạc do VTV tổ chức. Cùng năm này Tố Nga làm huấn luyện viên cho dòng nhạc dân gian tại “Tiếng hát Hà Nội”. Danh sách đĩa nhạc Vol.1: Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh Vol.2: Mời anh về Hà Tĩnh Vol.3: Cảm xúc từ câu hò điệu ví Vol.4: Dòng sông đa tình Vol.5: Giếng quê Vol.6: Thương quê Vol.7: Cánh Võng Mẹ Ru Vol.8: Miền quê em Vol.9: Hai đầu nỗi nhớ Vol.10: Thương ơi lòng mẹ Vol.11: Xin đừng trách đa đa Vol.12: Trăng Vol.13: Mưa Vol.14: Ta Tác phẩm Phim “Điều không thể mất”: phim ca nhạc - VTV (2021) MV "Về xứ Nghệ cùng em" (2017) "Sống mãi với thu vàng" (2018) "Ở hai đầu nỗi nhớ" (2018) “Cúc ơi” (2018) "Gửi vào thương nhớ" (2019) "Lời ru của mẹ" (2020) Liveshow cá nhân "Dòng sông đa tình" (2022) Sáng tác "Thương quê" (2019) phổ nhạc từ lời thơ của nhà thơ Phương Thảo. Vinh danh Giải thưởng Huy chương vàng hội diễn học sinh, sinh viên chuyên nghiệp toàn quốc Huy chương vàng liên hoan tiếng hát miền Trung tại Nha Trang Huy chương vàng tiếng hát Làng Sen tại Nghệ An Giải ba cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội năm 1999 Huy chương Vàng Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc… Vinh danh 2016: Nghệ sĩ ưu tú 2023: Con đường âm nhạc - VTV Tháng 9 Đời tư Tố Nga và người chồng cũ yêu nhau 12 năm, sau đó cưới nhau được 8 năm thì ly hôn. Họ có 1 con trai thường gọi là Su Su. Tham khảo Nữ ca sĩ Việt Nam Người Hà Tĩnh Sinh năm 1976 Nhân vật còn sống Người họ Nguyễn tại Việt Nam Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam
19856812
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gioan%20Giuse%20Th%C3%A1nh%20Gi%C3%A1
Gioan Giuse Thánh Giá
Gioan Giuse Thánh Giá, O.F.M. (tên khai sinh là Carlo Gaetano Calosirto; 15 tháng 8 năm 1654 – 5 tháng 3 năm 1739; không nên nhầm lẫn với thánh Gioan Thánh Giá, O.C.D.) là một linh mục người Ý và là một tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn đến từ đảo Ischia của nước Ý. Ông nổi tiếng về lối sống khắc khổ, hay làm phép lạ và từng được bổ nhiệm làm giáo tập của một tập viện (). Ông được phong chân phước vào năm 1789 và được tuyên thánh vào năm 1839. Giáo hội Công giáo mừng kính ông vào ngày 5 tháng 3 hàng năm. Cuộc đời Carlo Gaetano Calosirto sinh ngày 15 tháng 8 năm 1654 tại làng Ischia Ponte trên đảo Ischia thuộc vùng vịnh Napoli. Cha của ông là Giuse Calosirto, một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ ông là bà Laura Gargiulo. Ông thường xuyên gặp mặt các cha dòng thánh Augustino trên đảo Ischia và để học hỏi về tôn giáo và nhân văn. Năm lên 15 tuổi, Carlo đã chọn giã từ cha mẹ để bước vào đời sống tu trì nhờ sức hấp dẫn của nó đối với tâm hồn ông, và gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn Chân Đất do thánh Phêrô xứ Alcantara thành lập sau một cuộc canh tân dòng thánh Phanxicô. Tu viện mà ông gia nhập khi ấy là tu viện thánh nữ Lucia tại thành Napoli. Ông đổi tên thành Gioan Giuse Thánh Giá sau khi bước vào tập viện và chịu sự hướng dẫn của cha Giuse Robles. Đến tháng 1 năm 1671, ông được điều đi cùng với 11 tu sĩ khác – trong số đó ông là người trẻ tuổi nhất – đến thánh địa Santa Maria Occorrevole ở Piedimonte d'Alife để thành lập một tu viện cũng như cùng nhau xây dựng một nhà dòng tại đây. Ông được thụ phong linh mục vào ngày 18 tháng 9 năm 1677 tại nhà thờ Đức Bà Cả ở Piedimonte d'Alife. Trong khi sống tại Piedimonte, ông còn cho xây một tu viện nhỏ khác tại một nơi kín đáo trong một khu rừng và gọi tu viện này là "La Solitudine" (); đến nay tu viện này đã trở thành một điểm hành hương nhằm khuyến khích việc chiêm niệm trong khi cầu nguyện. Trong nhiều năm Linh mục Gioan Giuse từng đảm nhận nhiều trách nhiệm, vừa làm giáo tập tại thành Napoli, vừa làm cha giám hộ tu viện ở Piedimonte, bên cạnh các công việc khác thì vị linh mục còn đóng góp sức lực cách sốt sắng cho việc xây dựng Tu viện Granatello tại Portici (Napoli). Năm 1702, các tu viện tại Ý không còn phụ thuộc vào các gia tộc Tây Ban Nha nữa mà được lập thành một Tỉnh dòng riêng và linh mục Gioan Giuse Thánh Giá được bổ nhiệm làm Giám quản Tỉnh dòng Alcantarini tại bán đảo Ý. Với tư cách là bề trên, ông đã ra lệnh rằng không một anh em nào được phép đuổi một người ăn xin ra khỏi tu viện nếu chưa bố thí cho họ: trong những lúc cần thiết, ông còn dùng phần ăn của mình và thậm chí cả nơi ông sống trong tu viện để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của những người nghèo khổ. Trong chuyến đi xuyên đất liền vùng bán đảo Ý với tư cách Giám tỉnh, ông không để cho người khác nhận ra mình trong các quán trọ nơi ông nghỉ chân vì ông không thích sự nổi bật và không cho rằng mọi người nên coi ông là một người cao trọng. Tham khảo Sinh năm 1654 Mất năm 1739 Thánh Công giáo Rôma
19856818
https://vi.wikipedia.org/wiki/Livonia%20%28t%E1%BB%89nh%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BA%BF%20qu%E1%BB%91c%20Nga%29
Livonia (tỉnh của Đế quốc Nga)
Tỉnh Livonia (; ; ; ) là một tỉnh tự trị và là một trong những tỉnh vùng Baltic của Đế quốc Nga. Tham khảo Tỉnh của Đế quốc Nga Lịch sử Latvia Lịch sử Estonia
19856821
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Quy%E1%BA%BFt%20Chi%E1%BA%BFn
Trần Quyết Chiến
Trần Quyết Chiến (sinh này 3 tháng 2 năm 1984) là một cơ thủ bi-a đã ba lần giành chức vô địch World Cup Carom 3 băng do Liên đoàn Billiard thế giới (UMB) tổ chức vào các năm 2018, 2023 và 2024. Anh hiện là cơ thủ số một Việt Nam và giữ vị trí số hai thế giới. Tiểu sử Cơ thủ Trần Quyết Chiến sinh này 3 tháng 2 năm 1984 tại xã Sơn Tân (nay là xã Tân Mỹ Hà), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Khi lên 5 tuổi, anh đã cùng cha mẹ và anh trai chuyển vào Cà Mau lập nghiệp ở vùng kinh tế mới. Năm Quyết Chiến 12 tuổi, cha anh đã mua một bàn bi-a lỗ về cho những thanh niên trong xóm đánh để kiếm thêm thu nhập. Anh có niềm đam mê với bi-a từ đó và thường quanh quẩn bên cạnh để xem rồi học lỏm từ người lớn. Tranh thủ những lúc bàn trống thì anh thường chơi cùng với người bạn thời thơ ấu. Một thời gian sau, do ít có khách chơi nên cha anh đã bán bàn và anh phải qua xóm bên chơi bi-a phăng (carom tự do). Khi trưởng thành, do kinh tế gia đình khó khăn nên Quyết Chiến đã bỏ dở việc học và đi làm thêm nhiều nghề từ công nhân, phục vụ quán nhậu đến nhân viên trông coi bàn bi-a. Năm 22 tuổi, anh mới lần đầu tiếp xúc với bi-a carom 3 băng. Vì quá đam mê nên anh đã quyết định dùng tiền tiết kiệm và mượn thêm chủ quán để mua một cây cơ "xịn" giá 2,7 triệu đồng vào năm 2008. Kể từ đó anh bắt đầu tham gia thi đấu và giành giải ở các câu lạc bộ mở rộng. Sự nghiệp 2012–2017: Những dấu mốc đầu tiên Năm 2012 đánh dấu lần đầu tiên anh giành huy chương đồng Giải billards carom châu Á ở nội dung carom 3 băng. Trước đó, ở trận tứ kết Quyết Chiến đã vượt qua cơ thủ đồng hương là Nguyễn Quốc Nguyện với tỷ số 3–1. Còn trong trận bán kết, anh để thua Takeshima với tỷ số 1–3. Năm 2014, anh đã vào đến tứ kết Cúp thế giới nhưng phải dừng bước trước nhà vô địch năm đó là Dick Jaspers. Đến năm 2016, Quyết Chiến gây bất ngờ lớn khi giành huy chương bạc World Cup carom 3 băng tại Guri, Hàn Quốc. Đây là giải mà anh phải tự lo kinh phí đi thi, cũng không được vào thẳng vòng đấu chính thức mà phải bắt đầu từ vòng sơ loại. Đặc biệt, anh đã hạ chính Dick Jasper ở trận bán kết và chỉ chịu thua trước Jeremy Bury. Tuy nhiên, phong độ của Quyết Chiến chưa thực sự ổn định khi để thua đối thủ 18 tuổi Cho Myung Woo rồi bị loại ở vòng 1/8 World Cup chỉ một năm sau đó. Tại giải này, anh là cơ thủ duy nhất trong số 9 tay cơ của Việt Nam qua vòng 1/16 và được xếp hạng 15 thế giới, hơn đối thủ tới 19 bậc. 2018–nay: Ba lần vô địch thế giới 2018 là năm thành công lớn với Trần Quyết Chiến khi anh lần đầu tiên vô địch World Cup carom 3 băng tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Anh cũng nhận được khoản tiền thưởng cao thứ 6 trong giới bi-a năm đó với tổng cộng 118.000 USD (khoảng 2,7 tỷ VND). Trong số này có 18.500 USD từ cúp vàng thế giới và hơn 70.000 USD từ chức vô địch LG U+ Cup ở Hàn Quốc. Năm 2019, Quyết Chiến tiếp tục giữ vững phong độ và giành chức vô địch châu Á, hạ Cho Myung Woo – người từng đánh bại anh hai năm trước đó. Trong các năm 2020 và 2021, Giải thế giới bị tạm hoãn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Quyết Chiến trụ hạng số 7 thế giới. Tới năm 2022, anh lần đầu tiên dự SEA Games 31 và giành huy chương vàng. Cùng năm, anh về nhì Cúp thế giới tại Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ do lại thua trước Dick Jaspers. Năm 2023, Quyết Chiến trở lại với lần thứ hai vô địch World Cup carom 3 băng ở Porto, Bồ Đào Nha. Tại giải này, anh là hạt giống số 10 và được vào thẳng vòng bảng rồi lần lượt thắng đàn em Chiêm Hồng Thái ở bán kết và hạ hạt giống số 7 Sameh Sidhom ở chung kết. Tại giải World Championship cũng do UMB tổ chức cùng năm tại Ankara, Quyết Chiến giành ngôi vị á quân do để thua cơ thủ đồng hương là Bao Phương Vinh. Năm 2024 đánh dấu lần thứ ba Quyết Chiến vô địch World Cup tại Bogota, Colombia và tiếp tục vượt qua tay cơ người Ai Cập là Sidhom. Sau giải đấu, anh hiện đứng số 2 thế giới với 389 điểm, kém Cho Myung Woo 46 điểm. Sự cố bỏ giải Khi nói về bản thân, Quyết Chiến cho biết anh "lúc nào cũng có cái máu cạnh tranh" và "muốn tham gia tất cả các giải đấu, trong nước cũng như quốc tế". Tuy nhiên, anh cùng với cả đoàn bi-a Việt Nam đều bỏ lỡ chặng World Cup Porto, Bồ Đào Nha vào tháng 7 năm 2018 vì không kịp làm visa. Vào tháng 9 năm 2023, Quyết Chiến bất ngờ tuyên bố bỏ dở giải sau trận thi đấu phát sóng trực tiếp được UMB tổ chức cùng Liên đoàn Billiards & Snooker Trung Quốc ở Thượng Hải. Nguyên nhân được Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận là bởi các đoạn phim đã bị lồng ghép hình bản đồ Trung Quốc có chứa đường lưỡi bò. Trong lúc thi đấu, do tập trung cao độ và vị trí ngồi quay lưng với màn hình nên Quyết Chiến không nhận ra. Sau khi biết được thông tin, anh đã ngay lập tức liên hệ với huấn luyện viên để xin ý kiến và được sự đồng ý. Chủ tịch UMB sau đó còn mong hai thầy trò đưa ra lời giải thích nhẹ nhàng với ban tổ chức nhưng đã bị anh từ chối. Hành động của Quyết Chiến nhận được sự ủng hộ lớn từ người hâm mộ và được Sở Văn hóa đánh giá cao về "trách nhiệm công dân, lòng tự tôn dân tộc". Đời tư Quyết Chiến đã kết hôn và có hai con gái. Gia đình anh hiện đang sinh sống ở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh và có một câu lạc bộ bi-a mang tên anh trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ghi chú Tham khảo Cơ thủ Việt Nam
19856829
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20B%C3%ACnh%20Mai%20%28phim%202009%29
Kim Bình Mai (phim 2009)
Kim Bình Mai phần 2 () là một bộ phim khiêu dâm cổ trang Hồng Kông sản xuất năm 2009. Phim dựa theo tiểu thuyết Kim Bình Mai năm 1610 của Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh. Đây là phần tiếp theo của bộ phim Kim Bình Mai năm 2008. Phim do Tiền Văn Kỹ làm đạo diễn và được sản xuất bởi Vương Tinh. Phim có sự tham gia của Lâm Vĩ Kiện, Hayakawa Serina, Wakana Hikaru và Kaera Uehara. Nội dung Phân vai Các vai chính trong phim: Lâm Vĩ Kiện trong vai Tây Môn Khánh Serina Hayakawa trong vai Phan Kim Liên Hikaru Wakana trong vai Minh Nguyệt Kaera Uehara trong vai Bình Nhi Lương Mẫn Nghi trong vai Xuân Mai Đàm Cán Thông trong vai Hoa Tử Khư Ngô Khánh Triết trong vai Vũ Tòng Ngô Chí Hùng trong vai Vũ Đại Lang Chú thích Liên kết ngoài Phim tiếng Quảng Đông Phim Hồng Kông P
19856832
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1p%20%E1%BB%A9ng
Đáp ứng
Đáp ứng có thể là: Đáp lại đúng theo như đòi hỏi, yêu cầu Đáp ứng (hậu cung)
19856858
https://vi.wikipedia.org/wiki/American%20Songwriter
American Songwriter
American Songwriter là một tạp chí xuất bản hai tháng một lần chuyên đưa tin về các sáng tác âm nhạc. Được thành lập vào năm 1984, những nội dung thường xuyên xuất hiện trên tạp chí này bao gồm các cuộc phỏng vấn, mẹo sáng tác, tin tức, bài đánh giá âm nhạc và các cuộc thi viết lời nhạc. Tạp chí có trụ sở tại Nashville, Tennessee. Lịch sử Đội ngũ của American Songwriter tập trung hoàn thành mục tiêu ban đầu mà tạp chí đã đặt ra trong số đầu tiên phát hành vào tháng 8 năm 1984: sản xuất một tạp chí sâu sắc, hấp dẫn trí tuệ về nghệ thuật và những câu chuyện sáng tác bài hát. Năm 2004, tạp chí – vốn trước đó do Jim Sharp xuất bản – đã được bán cho một tập đoàn đầu tư có trụ sở tại Mobile, Alabama. Năm 2011, Albie Del Favero nắm quyền điều hành, "gia nhập đội ngũ với tư cách là đồng xuất bản và Chủ tịch công ty mẹ ForASong Media, LLC." Kể từ năm 2004, American Songwriter đã tăng từ 2.000 bản phát hành lên hơn 30.000 bản tính đến tháng 11 năm 2013 và đạt lượng độc giả khoảng 90.000–95.000 mỗi số và 150.000–200.000 lượt truy cập vào trang web chính thức mỗi tháng. Tạp chí tổ chức sáu cuộc thi viết lời hai tháng một lần. Người chiến thắng trong mỗi cuộc thi sẽ nhận được một cây đàn guitar acoustic Gibson mới, một micro Shure SM58 và một bài giới thiệu trên tạp chí. Người chiến thắng giải thưởng lớn hàng năm trong cuộc thi năm 2014 giành được một suất đồng sáng tác với Ashley Monroe và cơ hội thu âm tại một phòng thu hàng đầu ở Nashville. Năm 2019, American Songwriter đã được Savage Media mua lại. Một mục đặc biệt của trang web là Songwriter U, tập trung vào hoạt động kinh doanh sáng tác và bao gồm các bài viết về thu tiền bản quyền, tiếp thị, lưu diễn, hướng dẫn guitar và kỹ thuật viết lời. Xem thêm M Music & Musicians Tham khảo Liên kết ngoài Khởi đầu năm 1984 ở Hoa Kỳ Tạp chí âm nhạc Mỹ Tạp chí thành lập năm 1984 Tạp chí Tennessee Truyền thông đại chúng Nashville, Tennessee
19856873
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20n%C4%83m%202025
Danh sách bầu cử năm 2025
Dưới đây là danh sách bầu cử diễn ra trong năm 2025. Châu Á Bầu cử tổng thống Iran 2025. Tổng tuyển cử Nhật Bản 2025. 12 tháng 5: Tổng tuyển cử Philippines 2025. Tổng tuyển cử Singapore 2025. Bầu cử quốc hội Sri Lanka 2025. Châu Âu Bầu cử Nghị viện Albania 2025. Châu Đại Dương Châu Mỹ Châu Phi Chú thích và tham khảo Chú thích Tham khảo Bầu cử năm 2025 Bầu cử thập niên 2020 Danh sách liên quan đến năm 2025
19856874
https://vi.wikipedia.org/wiki/Defenders%20of%20the%20Faith
Defenders of the Faith
Defenders of the Faith là album phòng thu thứ chín của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest, được phát hành vào ngày 13 tháng 1 năm 1984 tại Hoa Kỳ và vào ngày 20 tháng 1 năm 1984 tại Anh. Album giành được chứng nhận bạch kim của RIAA, và cho ra các đĩa đơn gồm "Freewheel Burning", "Some Heads Are Gonna Roll" và "Love Bites". Thu âm và phát hành Defenders of the Faith được thu âm tại Ibiza Sound Studios, Ibiza, Tây Ban Nha, và được trộn âm tại DB Recording Studios và Bayshore Recording Studios ở Coconut Grove, Miami, Florida. Đĩa dạng LP và cassette được phát hành vào ngày 13 tháng 1 năm 1984 tại Hoa Kỳ và ngày 20 tháng 1 năm 1984 tại Anh, còn album có mặt trên kệ bán đĩa CD vào tháng 7 năm ấy. Đĩa CD đã qua tái hậu kiểm được phát hành vào tháng 5 năm 2001. Cùng lúc ra mắt album, ban nhạc đã khởi động tour ở châu Âu, mà phần lớn các buổi hòa nhạc diễn ra ở Bắc Mỹ vào dịp xuân và hè. Thiết kế bìa Bìa album do Doug Johnson (tác giả phần thiết kế Hellion trong Screaming for Vengeance) thiết kế, miêu tả Metallian - một sinh vật có sừng, vẻ ngoài giống hổ tấn công trên cạn với những họng súng gatling và đường ray xe tăng, do chính ban nhạc lên ý tưởng. Bìa sau có ghi một thông điệp: Đón nhận Về mặt phong cách, Defenders of the Faith không mấy khác so với tác phẩm trước là Screaming For Vengeance và có công thức tương tự gồm những bản nhạc hiệu metal ngắn, nhịp nhanh với điệp khúc ngân vang ở sân vận động, dẫu cho các yếu tố nhạc progressive trở lại trong những bài như "The Sentinel". Bài "Rock Hard Ride Free" thực chất đã được tái sản xuất từ một bài có nhan đề "Fight for Your Life" được thu âm trong các buổi ghi nháp Screaming For Vengeance (1982), song không được đưa vào album ấy. Album ngay lập tức gặt hái thành công, giành được thứ hạng chỉ kém một bậc so với Screaming for Vengeance trên bảng xếp hạng Billboard 100 Albums. Tuy nhiên, một vài nhà phê bình phản đối album thiếu một đĩa đơn nổi bật như "Breaking the Law" hay "You've Got Another Thing Comin', và sự tương đồng chung của nhạc phẩm với Screaming for Vengeance. Tranh cãi "Eat Me Alive" được liệt ở hạng 3 trong danh sách "Filthy Fifteen" của Parents Music Resource Center - gồm 15 ca khúc mà tổ chức này cho là phản cảm nhất. Đồng sáng lập của PMRC là Tipper Gore cho rằng bài hát nói về tình dục bằng miệng trước họng súng. Nhằm đáp trả trước các cáo buộc, Priest đã thu âm bài hát có nhan đề "Parental Guidance" ở album kế tiếp là Turbo. Quảng bá Tháng 12 năm 1983, ban nhạc làm một tour ngắn với các ngày diễn ở Anh và Đức nhằm giới thiệu đĩa đơn mới "Freewheel Burning". Tháng 1 năm 1984, ban nhạc khởi động Metal Conqueror Tour ở khắp Bắc Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Ở tour này, ban nhạc thể hiện trực tiếp toàn bộ các bài hát từ album, ngoại trừ "Eat Me Alive". Trong tour năm 2008 nhằm quảng bá Nostradamus, nhóm trình bày nhiều bài hát chưa được thể hiện trực tiếp, trong số đó có "Eat Me Alive". Tính đến nay, Defenders of the Faith đã trở thành album thứ hai Judas Priest có toàn bộ các bài được trình bày trực tiếp (trường hợp đầu tiên là Rocka Rolla), kế đến là British Steel trong tour kỷ niệm 30 năm ra mắt British Steel (2009). Di sản "Jawbreaker" được nhóm Rage chọn cover cho đĩa đơn "Higher than the Sky" và cũng xuất hiện trong album tri ân A Tribute to Judas Priest: Legends of Metal và đĩa CD All G.U.N. Bonustracks. Năm 2010, "Jawbreaker" cũng được ban nhạc power metal Thụy Điển Sabaton cover cho phần tái bản album Metalizer. Năm 2017, "Jawbreaker" được ban nhạc Thụy Sĩ Burning Witches cover cho album đầu tay cùng tên nhóm. "The Sentinel" được cover bởi Machine Head cho bản đặc biệt của album Unto the Locust (2011) cũng như được Heavens Gate chọn đưa vào bản tiếng Nhật của album Planet E (1996). "Night Comes Down" được Katatonia cover cho bản tiếng Nhật của album The Fall of Hearts (2016). Danh sách ca khúc Bản kỷ niệm 30 năm – Đĩa CD trực tiếp tặng kèm Xếp hạng Chứng nhận Chú thích Album của Columbia Records Album năm 1984 Album của Judas Priest Album do Tom Allom sản xuất
19856894
https://vi.wikipedia.org/wiki/Digital%20Songs
Digital Songs
Bảng xếp hạng Digital Songs hoặc Digital Song Sales (trước đây có tên là Hot Digital Songs) xếp hạng các bài hát nhạc số bán chạy nhất tại Hoa Kỳ, do hệ thống Nielsen SoundScan tổng hợp và tạp chí Billboard xuất bản. Dù bảng xếp hạng đã bắt đầu theo dõi số liệu doanh số bán bài hát vào tuần lễ ngày 30 tháng 10 năm 2004, nhưng phải đến số ra ngày 22 tháng 1 năm 2005 mới chính thức được ra mắt, cũng như sử dụng số liệu hợp nhất trên tất cả các phiên bản của một bài hát được cung cấp từ các nhà phân phối nhạc số. Dữ liệu của bảng xếp hạng được đưa vào Hot 100 ba tuần sau đó. Kể từ tháng 10 năm 2004, doanh số bán nhạc số đã được đưa vào nhiều bảng xếp hạng đĩa đơn của Billboard. Quyết định này dựa trên sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nhạc số trong khi doanh số bán đĩa đơn định dạng vật lý dần suy giảm. Bài hát đầu tiên đạt quán quân bảng xếp hạng Digital Songs là "Just Lose It" của rapper Eminem. Xem thêm Hot Digital Tracks Phân phối kỹ thuật số Tham khảo Liên kết ngoài Bảng xếp hạng Billboard Digital Songs hiện tại Bảng xếp hạng Billboard
19856911
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Ho%C3%A0i%20Thu
Ngô Hoài Thu
Ngô Hoài Thu, là một nữ sĩ quan cấp cao, tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc hàm Thiếu tướng. Bà hiện giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trưởng ban Phụ nữ Công an nhân dân Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục Công tác Đảng và công tác chính trị, Bộ Công an (Việt Nam). Lịch sử thụ phong cấp bậc hàm Tham khảo Nhân vật còn sông Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam
19856925
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexis%20Petridis
Alexis Petridis
Alexis Petridis (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1971) là nhà báo, nhà phê bình âm nhạc người Anh. Ông là nhà trưởng ban phê bình nhạc rock và pop cho The Guardian, đồng thời là cộng tác viên thường xuyên cho GQ. Ngoài công việc là nhà báo âm nhạc, ông còn tham gia đóng góp cho một chuyên mục thời trang cuối tuần của The Guardian, cũng như đóng góp cho chuyên mục Lost in Showbiz. Tiểu sử và sự nghiệp Petridis sinh ra trong một gia đình gốc Hy Lạp ở Thành phố Sunderland phía bắc nước Anh, nhưng lớn lên ở Silsden, gần Keighley ở Yorkshire. Gia đình ông sau đó chuyển đến Buckinghamshire. Sau khi theo học tại Trường Ngữ pháp của Tiến sĩ Challoner ở Amersham, ông bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình tại Đại học Cambridge bằng cách đóng góp cho tờ báo sinh viên Varsity. Anh là biên tập viên cuối cùng của tạp chí âm nhạc Select hiện không còn xuất bản. Ông cũng là người chắp bút cho cuốn tự truyện Me ra mắt năm 2019 của Elton John. Giải thưởng Petridis đã tám lần giành chiến thắng ở hạng mục Người viết đánh giá bản thu âm của năm tại Giải Record of the Day, liên tục mỗi năm trong suốt khoảng thời gian từ năm 2005 đến 2012. Ông cũng đoạt giải Nghệ sĩ và tác phẩm âm nhạc: Cây viết của năm vào năm 2006 và Cây viết âm nhạc xuất sắc nhất (do sinh viên bình chọn) năm 2012. Năm 2017, ông được Trường Cao đẳng Âm nhạc Leeds trao tặng Học bổng. Tham khảo Liên kết ngoài Alexis Petridis lưu trữ trên The Guardian Cựu sinh viên Đại học Cambridge Nam nhà báo Anh Nhà phê bình âm nhạc Anh Nhà báo The Guardian Nhân vật còn sống Sinh 1971
19856962
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anne%20or%20Beast%3F
Anne or Beast?
Anne or Beast? (tạm dịch: Anne hay quái vật?) là tập phim đầu tiên của bộ phim hoạt hình Amphibia của Disney Channel. Tập phim được chiếu ngày trên DisneyNOW và kênh YouTube của Disney Channel và được chiếu trên Disney Channel ngày . Tập phim này cũng được chiếu cùng với tập 1B, Best Fronds. Nội dung Một đêm nọ, chú ếch Wally một mắt đang đi từ quán rượu về nhà. Trên đường đi qua khu rừng, anh nghe thấy những tiếng động lạ phát ra, và sau đó anh thấy một sinh vật bí ẩn với đôi mắt trắng trong lùm cây. Sáng hôm sau, thị trấn Wartwood lại tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhà Plantar, gồm Sprig và em gái cậu Polly, và người ông của cả hai là Hop Pop cũng đã ra chợ để mua đồ và giao lại chiếc xe cho Polly canh. Sprig muốn được canh chiếc xe, nhưng Hop Pop không cho và cho rằng cậu quá vô trách nhiệm, và vẫn giao chiếc xe cho Polly, bảo cô không cho Sprig rời khỏi xe. Sau đó, Wally chạy ra, thông báo cho cả thị trấn biết về con quái vật trong rừng. Mọi người lúc này đã tập trung lại và thị trưởng Toadstool đã tuyên bố là sẽ bắt con quái vật này. Để chứng minh rằng mình không vô trách nhiệm, Sprig cũng đã quyết tâm đi bắt con quái vật. Khi Polly ngăn cản, Sprig đã dùng kẹo để hối lộ Polly và được Polly cho đi. Sprig đi vào rừng và bắt đầu khám xét, đi tìm dấu vết trong khu rừng. Trong lúc đi, cậu vô tình sập bẫy và bị treo lên. Lúc này, con quái vật xuất hiện, thực ra là cô bé Anne Boonchuy vừa lạc đến đây. Sprig đã kêu cô là "quái vật", nhưng Anne nói rằng mình vừa bị lạc đến đây và chỉ cần được giúp đỡ. Ngay lúc đó, có một con quái vật tiến tới. Anne đành phải cắt sợi dây đang treo Sprig và đưa cậu đi. Họ trốn vào được một khúc gỗ rỗng trước khi con quái vật kịp thấy họ. Trong khúc gỗ, Anne và Sprig đã nói chuyện với nhau và trở nên thân nhau. Lúc này, Hop Pop đã mua đồ xong và quay lại. Khi không thấy Sprig, Hop Pop đã hỏi Polly, và sau đó dẫn Polly vào trong rừng để tìm Sprig. Dân làng sau đó cũng đi vào rừng. Khi con quái vật rời đi, Anne và Sprig cũng ra ngoài. Sprig cũng đã kiếm cho Anne nấm để ăn và nói chuyện với cô. Anne nói rằng mình đến từ "một thế giới khác" và nói rằng mình không biết tại sao mình lại lạc đến đây. Dân làng lúc này cũng đã tới chỗ Anne và Sprig. Họ đã bắt trói Anne lại. Anne nói với Sprig tại sao cậu lại lừa cô, nhưng Sprig nói rằng mình không biết. Lúc này, con quái vật lúc nãy, là một con châu chấu khổng lồ xuất hiện. Dân làng đã đuổi con châu chấu đi, nhưng sau đó một con châu chấu khác lại xuất hiện và bắt đầu tấn công dân làng. Sprig đã cởi trói cho Anne, và cả hai đã đánh bại con châu chấu. Khi dân làng muốn đuổi Anne đi, Sprig đã ngăn lại và bảo rằng Anne chỉ đang tìm sự giúp đỡ. Khi dân làng còn nghi hoặc, Hop Pop đã đến và nói rằng sẽ lo liệu cho Anne. Khi Anne muốn rời đi, Hop Pop đã ngăn lại và nói rằng nơi này rất nguy hiểm và nếu rời đi, Anne có thể sẽ chết. Vì vậy, Anne phải tạm về nhà của gia đình Plantar. Đến tối, Hop Pop đưa Anne xuống dưới căn hầm nhà mình và cho cô ở đó. Lúc này, Sprig xuống và nói rằng cậu rất vui vì cô ở lại đây với họ. Khi Sprig rời đi, Anne đã lấy chiếc hộp nhạc bí ẩn, thứ đã đưa cô đến đây và mở nó lần nữa, nhưng nó không hoạt động, buộc Anne phải ở lại đây một thời gian. Đánh giá Tập phim được đánh giá 7,7 điểm trên IMDB, cùng với tập Best Fronds. Nhà đánh giá Dave Trumbore của trang web Collider đánh giá tập phim 4 trên 5 sao và "cảm thấy tập phim này là sự giới thiệu khá tốt cho series." Phát sóng quốc tế Chú thích
19856973
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rex%20Orange%20County
Rex Orange County
Alexander James O'Connor (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1998) thường được biết đến với nghệ danh Rex Orange County là ca sĩ, nhạc sĩ người Anh. Nhà báo Zoë Jones của NPR Music đã miêu tả nhạc của O'Connor giống như "sự pha trộn tươi sáng giữa hip-hop, jazz và lo-fi". Tự dạy cho mình cách sáng tác nhạc, anh đã sáng tác album đầu tiên mang tên Bcos U Will Never Be Free (2015) miễn phí trên Bandcamp và SoundCloud. O'Connor sau đó đã ra mắt thêm nhiều album qua các năm 2016 và 2017, đặc biệt trong số đó có thể kể đến như "Sunflower" và "Best Friend", sau đó ra thêm album thứ hai, Apricot Princess (2017). Sau khi nhận được sự chú ý từ Tyler, the Creator với album Bcos U Will Never Be Free, họ hợp tác với nhau khi sáng tác hai bài hát trong album Flower Boy (2017) của Tyler, the Creator. Rex Orange County từ đó trở nên nổi tiếng, điều này giúp anh ký được hợp đồng với RCA Records. Năm 2019, anh ra mắt album thứ ba, Pony, album đầu tiên của O'Connor lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200. Album thứ tư của anh, Who Cares? (2022) đã đứng đầu UK Album Chart và đứng thứ năm trên Billboard 200. Thời thơ ấu Alexander James O'Connor sinh ngày 4 tháng 5 năm 1998, có cha là Phil O'Connor và mẹ là Nina O'Connor. Sinh ra và lớn lên tại Grayshott, Anh, O'Connor đã có hứng thú với âm nhạc ngay từ bé. Khi lên 5, anh tham gia dàn hợp xướng với vị trí tay trống ở ngôi trường nơi mẹ anh làm việc. Những năm sau đó, anh tự mình học cách chơi đàn piano. Ngoài ra, anh chia sẻ rằng thời thơ ấu, anh thường nghe những ca khúc của Queen, ABBA, Stevie Wonder và các ban nhạc Mỹ khác như Weezer hay Green Day. Anh coi những nghệ sĩ này và một số người khác là nguồn cảm hứng cốt lõi cho âm nhạc của mình. Nghệ danh Rex Orange County của anh được dựa trên biệt danh mà một người thầy giáo của O'Connor đã đặt cho anh ấy, "The OC". Sự nghiệp 2014–2016: Giai đoạn đầu sự nghiệp và album Bcos U Will Never B Free Ở tuổi 16, O'Connor bắt đầu chơi guitar và tự sáng tác nhạc bằng Logic Pro của Apple. Ở tuổi này, anh cũng bắt đầu theo học tại trường BRIT, nơi mà anh học đánh trống. Việc học tại nơi đây đã giúp O'Connor có cơ hội tiếp xúc rộng rãi với nhiều dự án khác nhau với các học sinh trong trường mà anh cho rằng đã giúp anh tiếp xúc với thể loại âm nhạc mới. Ngày 4 tháng 9 năm 2015, O'Connor tự phát hành album Bcos U Will Never B Free trên Bandcamp và SoundCloud. Sau khi được nghe album của Rex Orange County, nhạc sĩ người Anh Two Inch Punch đã liên hệ với anh và cung cấp cho anh ấy một đội ngũ quản lý. Hai người sau đó đã tiếp tục hợp tác với nhau trong suốt sự nghiệp của O'Connor với các ca khúc "UNO", "Best Friend" và "Untitled". 2017–2018: Nổi lên và album Apricot Princess Bcos U Will Never B Free cũng thu hút sự chú ý của rapper người Mỹ, Tyler, the Creator. Tyler đã gửi email mô tả sự hứng thú của anh với dự án của O'Connor. Tyler sau đó đã đưa O'Connor bay đến Los Angeles để hai người cùng hợp tác với nhau trong album Flower Boy của Tyler; Rex Orange County đã đồng sáng tác và góp giọng trong hai bài "Boredom" và "Foreword" của album. Ngày 25 tháng 1 năm 2017, O'Connor phát hành đĩa đơn "Best Friend" và sau đó là album Apricot Princess vào cuối năm 2017. Ngay sau sự thành công của Apricot Princess và Flower Boy, ngày 11 tháng 10 năm 2017, anh hợp tác cùng nhạc sĩ người Hà Lan Benny Sings với đĩa đơn "Loving Is Easy". 2019–hiện tại: Pony và Who Cares? Ngày 14 tháng 2 năm 2019, O'Connor đã phát hành đĩa đơn "New House". Ngày 12 tháng 9 cùng năm, anh phát hành "10/10", 1 trong 3 đĩa đơn từ album "Pony" được phát hành vào ngày 25 tháng 10 của mình. "Pony" là album đầu tiên của Rex Orange County được phát hành thông qua RCA Records. Ngày 30 tháng 9 năm 2020, O'Connor đã phát hành đĩa mở rộng bao gồm các bản ghi âm buổi biểu diễn của anh tại Radio City Music Hall ở thành phố New York với tựa đề "Live at Radio City Music Hall". Tháng 10 năm 2020, O'Connor xác nhận rằng anh đang trong quá trình thu âm thứ tư mang tên Who Cares?. Tới ngày 13 tháng 1 năm 2022, Rex Orange County giới thiệu album thông qua việc gửi những tấm postcard chứa một số điện thoại khi được gọi sẽ phát ra một đoạn bài hát trong album. Album Who Cares? chính thức được phát hành vào ngày 11 tháng 3 năm 2022 và nhanh chóng vươn lên đứng đầu UK Albums Chart, xếp trên Imperia của Ghost. Đời tư Năm 2015, O'Connor bắt đầu hẹn hò với ca sĩ, nhạc sĩ người Anh Thea Morgan-Murrell (hay còn được biết đến với nghệ danh Thea) khi họ gặp nhau tại trường BRIT. Họ hợp tác với nhau trong hai bài hát "Sycamore Girl" và "Never Had the Balls"; ngoài ra anh cũng thường xuyên hát về cô trong một số bài hát khác. Vậy nhưng, ngày 24 tháng 11 năm 2020, O'Connor đã xác nhận trên Twitter (nay là X) về việc hai người đã chia tay với dòng tweet "i am not in a relationship" (tạm dịch: tôi đang không trong một mối quan hệ nào). Ngày 10 tháng 10 năm 2022, O'Connor phải hầu tòa tại tòa án Hoàng gia Southwark với cáo buộc tấn công tình dục một người phụ nữ được cho là xảy ra vào năm 2021. Anh phủ nhận mọi cáo buộc người phụ nữ đưa ra và được tại ngoại sau phiên tòa xét xử vì không đủ bằng chứng kết tội. Một người đại diện của O'Connor đã thay mặt anh nói rằng: "Alex bị sốc trước những cáo buộc và mong muốn được minh oan trước tòa". Vào ngày 22 tháng 12 năm 2022, O'Connor đã đưa ra tuyên bố rằng mọi cáo buộc chống lại anh đều đã bị hủy bỏ. Đoạn CCTV và một đoạn phỏng vấn của cảnh sát với một người bạn của người khiếu nại - người đã ở cùng với người cô vào đêm cô được thẩm vấn - không khớp với lời kể của người khiếu nại, đồng nghĩa với việc vụ án không đáp ứng được yêu cầu pháp lý của Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh và điều này tuyên bố O'Connor vô tội. Tham khảo Nhân vật còn sống Sinh năm 1998 Nam ca sĩ Anh Ca sĩ Anh thế kỷ 21 Nghệ sĩ nhạc hip hop Anh Nghệ sĩ đa nhạc cụ người Anh
19856985
https://vi.wikipedia.org/wiki/Family%20Guy%20%28m%C3%B9a%201%29
Family Guy (mùa 1)
Mùa đầu tiên của Family Guy được phát sóng trên Fox từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 16 tháng 5 năm 1999, mùa đầu tiên này bao gồm bảy tập và trở thành mùa phim ngắn nhất của loạt phim này cho đến nay. Loạt phim kể về gia đình Griffin, một gia đình không êm ấm bao gồm người cha Peter, mẹ Lois, cô con gái Meg, hai cậu con trai Chris, Stewie và chú chó được nhân cách hóa — Brian, tất cả đều sống ở quê nhà Quahog, một thành phố hư cấu ở tiểu bang Rhode Island của Hoa Kỳ. Chương trình có sự tham gia lồng tiếng của người sáng tạo bộ truyện Seth MacFarlane, Alex Borstein, Seth Green và Lacey Chabert trong vai các thành viên của gia đình Griffin. Giám đốc sản xuất cho mùa đầu tiên là David Zuckerman và MacFarlane. Đây cũng là mùa Chabert tham gia lồng tiếng cho cả mùa, trước khi cô được thay thế bởi Mila Kunis trong phần còn lại của loạt phim, bắt đầu từ tập thứ ba của mùa hai "Da Boom". Trong lần công chiếu cũng như ra mắt loạt phim với tập đầu tiên "Death Has a Shadow" được phát sóng nối tiếp ngay sau giải đấu Super Bowl lần thứ 33 và thu hút được 22,01 triệu khán giả theo dõi. Phần còn lại của mùa đầu tiên phát sóng từ ngày 11 tháng 4 đến ngày 16 tháng 5 năm 1999, với tất cả các tập được phát sóng vào Chủ nhật. Sau mùa đầu tiên, chương trình rời lịch chiếu vào mỗi tối Chủ nhật và sẽ không phát sóng vào ngày Chủ nhật cho đến năm 2005. Loạt phim nhận được nhiều lời khen ngợi từ hầu hết các nhà phê bình, đặc biệt là hai tập "I Never Met the Dead Man" và "Brian: Portrait of a Dog", tuy nhiên một số nhà phê bình lại không thích những chủ đề của các tập phim. Bộ DVD Volume One, bao gồm hai mùa một và hai với hai mươi tám tập, được phát hành tại Vùng 1 vào ngày 15 tháng 4 năm 2003, Vùng 2 vào ngày 12 tháng 11 năm 2001 và Vùng 4 vào ngày 20 tháng 10 năm 2003. Bộ phim kể từ đó đã được phát hành dưới dạng phân phối. Phát triển Ý tưởng Seth MacFarlane hình thành nên ý tưởng cho Family Guy vào năm 1995 khi đang theo học về hoạt hình tại Trường Thiết kế Rhode Island (RISD). Tại đây, anh ấy đã tạo nên bộ phim luận văn của mình The Life of Larry, và giáo sư của anh tại RISD sau này đã gửi tác phẩm của anh cho xưởng phim hoạt hình Hanna-Barbera và MacFarlane được xưởng phim này thuê. Năm 1996, MacFarlane tạo ra phần tiếp theo của The Life of Larry mang tên Larry and Steve, trong đó có một nhân vật trung niên tên là Larry và một chú chó trí tuệ, Steve; đoạn phim ngắn này được phát sóng vào năm 1997 với tư cách là một trong những tập phim trong loạt phim World Premiere Toons của Cartoon Network. Các nhà quản lý tại Fox đã xem được bộ phim ngắn về Larry và ký hợp đồng với MacFarlane để tạo ra một loạt phim mang tên Family Guy. Fox đề xuất MacFarlane hoàn thành một đoạn phim ngắn 15 phút và cấp kinh phí cho anh ấy là 50.000 USD. Một số khía cạnh trong Family Guy được lấy cảm hứng từ bộ phim ngắn về Larry. Trong khi thực hiện bộ phim, Larry và Steve dần dần phát triển thành Peter và Brian. Sau khi tập phim thử nghiệm được phát sóng, bộ phim đã được bật đèn xanh và được tiếp tục sản xuất. Nhân sự Mùa phim này được phát sóng trên kênh Fox ở Hoa Kỳ. David Zuckerman và MacFarlane là giám đốc sản xuất cho mùa đầu tiên này. MacFarlane còn đảm nhận vai trò nhà sản xuất phim truyền hình. Nhà sản xuất của mùa này là Sherry Gunther, cùng với Mike Barker và Matthew Weitzman là nhà đồng sản xuất. Các nhà sản xuất khác bao gồm Craig Hoffman, Danny Smith, Gary Janetti và John Riggi. Đội ngũ biên kịch bao gồm MacFarlane, Chris Sheridan, Neil Goldman, Garrett Donovan, Ricky Blitt, Andrew Gormley, giám sát sản xuất Danny Smith và Gary Janetti, nhà đồng sản xuất Matt Weitzman và Mike Barker, và diễn viên lồng tiếng Mike Henry. Có sáu đạo diễn cho bảy tập, Michael DiMartino làm đạo diễn cho hai tập phim. Peter Shin đảm nhận vai trò là đạo diễn diễn hoạt cho cả mùa phim. Walter Murphy sáng tác các bản nhạc cho cả mùa phim, còn Stan Jones là người biên tập phim. Dàn diễn viên Mùa đầu tiên này có dàn diễn viên bao gồm bốn diễn viên chính. MacFarlane lồng tiếng cho Peter Griffin, một công nhân cổ cồn xanh và là gia trưởng của gia đình Griffin. Đứa bé thiên tài độc ác Stewie và chú chó cưng Brian được nhân cách hóa đều được lồng tiếng bởi MacFarlane. Các thành viên khác trong gia đình bao gồm Lois Griffin là vợ của Peter, cô có tính trách nhiệm nhưng lại có thêm phần tính cách nổi loạn, do Alex Borstein lồng tiếng; cô con gái tuổi teen Meg với tính cách nóng nảy, giận dữ và luôn chán ghét bản thân mình, nhân vật này do Lacey Chabert lồng tiếng; và cậu con trai tuổi teen ngốc nghếch nhưng đáng yêu của gia đình họ, Chris, do Seth Green lồng tiếng. Bắt đầu từ tập thứ ba của mùa thứ hai, Chabert được thay thế bởi Mila Kunis trong suốt phần còn lại của loạt phim. Phần này có một số nhân vật phụ bao gồm Lori Alan trong vai Diane Simmons, một người đưa tin địa phương. Mike Henry trong vai Cleveland Brown, hàng xóm và là bạn của gia đình Griffin; Patrick Warburton trong vai Joe Swanson, một người hàng xóm khuyết tật; và Jennifer Tilly trong vai Bonnie Swanson, người vợ đang mang thai của Joe. Các nhân vật thường xuyên xuất hiện khác bao gồm Carlos Alazraqui trong vai Jonathan Weed, ông chủ của Peter, và Phil LaMarr trong vai Ollie Williams. Họa sĩ truyện tranh Butch Hartman lồng tiếng cho một số nhân vật phụ. Viết kịch bản Trong mùa đầu tiên, các nhà biên kịch đã chia sẻ về một văn phòng đơn do đội sản xuất King of the Hill cho họ mượn. Phần lớn các nhà biên kịch phải đồng thuận về ý tưởng của một tập phim trước khi gửi nó cho MacFarlane phê duyệt, ý tưởng cuối cùng phải nhận được sự đồng ý từ Fox trước khi bắt đầu sản xuất. Trong các cuộc phỏng vấn và trên phần bình luận DVD của mùa một, MacFarlane giải thích rằng anh là một fan hâm mộ của các chương trình phát thanh những năm 1930 và 1940, đặc biệt là tuyển tập kinh dị Suspense, do đó tập đầu có các tựa như "Death Has a Shadow" và "Mind Over Murder". Đội ngũ sản xuất cuối cùng đã bỏ quy ước đặt tên này sau khi tính mới mẻ không còn nữa. Các tập Đón nhận Mùa đầu tiên của Family Guy đã nhận về những đánh giá đa phần là tích cực. Ahsan Haque đến từ trang IGN gọi mùa đầu tiên của Family Guy là "cực kỳ ngắn nhưng mang tính đột phá", đồng thời còn nêu danh hai tập "Brian: Portrait of a Dog" và "I Never Met the Dead Man" là hai trong số những tập phim hay nhất của chương trình. Năm 2008, IGN đã đưa ý tưởng của Peter về việc gắn một tấm bìa cứng giống hình dạng của màn hình tivi quanh eo anh ấy trong tập "I Never Met the Dead Man" vào danh sách "10 ý tưởng điên rồ nhất của Peter Griffin". Sau đó vào năm 2009, họ đưa kế hoạch đông lạnh cây bông cải xanh của Stewie cũng tại tập phim đó vào danh sách "10 kế hoạch độc ác nhất của Stewie". Một biên tập viên khác của IGN, Jeremy Conrad, bày tỏ rằng: "Không có nhiều chương trình truyền hình rõ nét hoặc đủ dũng cảm để xúc phạm tất cả mọi người trên hành tinh này. [...] Nếu bạn thấy sự xúc phạm hài hước này buồn cười, rất có thể bạn sẽ thích chương trình này." David Williams đến từ DVD Movie Guide đã đưa ra đánh giá tích cực về Volume One của Family Guy và nói rằng mùa đầu tiên đã làm rất tốt trong việc giới thiệu các nhân vật của bộ phim, sau đó kết thúc bài viết với lời bình "Nếu bạn là một fan hâm mộ của các chương trình như The Simpsons, South Park, Futurama, hoặc Married... with Children và tận hưởng sự hài hước mang tính thời sự, khô khan cũng như đầy bỡn cợt, thì Family Guy sẽ phù hợp với bạn". Aaron Beierle của DVD Talk nhận định ở cuối bài đánh giá của mình rằng, "Xuất sắc, cực kỳ dí dỏm và vui nhộn một cách đen tối, Family Guy đáng tiếc đã bị hủy sau khi Fox tung ra khoảng sáu hoặc bảy khung giờ khác nhau. Những người hâm mộ chương trình chắc chắn nên chọn những bộ tuyệt vời này, trong khi những ai chưa xem thì nên cân nhắc xem thử. Rất khuyến khích". Một trong những đánh giá trái chiều đến từ Robin Pierson của The TV Critic, anh cho điểm tổng thể của mùa phim là 59/100. Mặc dù ca ngợi loạt phim này là "một thể loại phim hoạt hình hài có sự khác biệt rõ ràng nhằm tạo ra những trò đùa mà các phim hoạt hình khác không thể làm được" và nhận thấy "đủ hứa hẹn để tin tưởng rằng chương trình có thể trở nên thực sự hài hước", nhưng anh chỉ trích "bộ sưu tập truyện cười bằng việc hồi tưởng của mùa này hơi khập khiễng." Pierson coi "I Never Met the Dead Man" là tập hay nhất của mùa đầu tiên, và coi "The Son Also Draws" là tập phim tệ nhất mùa. Trò đùa trong đoạn kết của tập "The Son Also Draws" (trong đó Peter nói rằng "Canada tệ quá"), đã gây ra tranh cãi với khán giả Canada. Ken Tucker đã cho loạt phim này điểm D trong mục Entertainment Weekly, gọi phần hoạt hình của loạt phim này là sự vụng về, điều mà anh cho rằng đã khiến hoạt hình của Hanna-Barbera trông hiện đại. Anh cũng hy vọng rằng thay vì dành ra nửa tiếng để xem Family Guy thì những người thông minh nên tắt tivi đi và bắt đầu một cuộc tranh luận về các cuộc không kích ở Kosovo. Buổi ra mắt loạt phim Family Guy là chương trình hàng đầu Super Bowl XXXIII, đạt tổng cộng 22,01 triệu người xem. Băng đĩa Mùa đầu tiên và mùa thứ hai được phát hành với tựa đề Family Guy Volume One, bộ hộp DVD bốn đĩa tiêu chuẩn này ra mắt ở Vùng 1 vào ngày 15 tháng 4 năm 2003. Được phân phối bởi 20th Century Fox Home Entertainment, bao gồm một số phần bổ sung trong DVD như bình luận của từng tập, cảnh hậu trường và các điểm quảng cáo trực tuyến. Các số lượng tập tương tự, không có các mục đặc biệt, được phát hành ở Vùng 2 vào ngày 12 tháng 11 năm 2001 và ở Vùng 4 vào ngày 20 tháng 10 năm 2003. Liên kết ngoài Tham khảo Chung Family Guy season one episode guide. IGN. Retrieved July 27, 2010. Nguồn tham khảo khác Mùa phim Family Guy Mùa truyền hình Mỹ năm 1999
19856988
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20c%E1%BB%91%20Facebook%20ng%E1%BB%ABng%20ho%E1%BA%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%202024
Sự cố Facebook ngừng hoạt động 2024
Vào ngày 5 tháng 3 năm 2024, mạng xã hội Facebook và các công ty con của họ, Messenger và Instagram đã ngừng hoạt động trên toàn cầu. Sự cố bắt đầu vào khoảng 15:00 UTC và được báo cáo lên công ty mẹ Meta Platforms của Facebook vào lúc 15:30 UTC. Biểu hiện của sự cố ngừng hoạt động là người dùng bị đăng xuất. Vì điều này giống với cách bẻ khóa tài khoản nên nó đã gây ra sự khó chịu cho một số người dùng. Một số người đã đặt câu hỏi trên các trang mạng xã hội khác như Twitter / X về việc tài khoản của họ có bị hack hay không. Đọc thêm Sự cố Facebook ngừng hoạt động 2021 Tham khảo Sự cố Facebook Sự cố Internet thập niên 2020 Sự kiện tháng 3 năm 2024 Khoa học máy tính năm 2024
19856989
https://vi.wikipedia.org/wiki/FripSide
FripSide
fripSide là cặp song ca nhạc pop và trance Nhật Bản do nhà soạn nhạc Yaginuma Satoshi (Sat) và ca sĩ Nao thành lập vào tháng 2 năm 2002. Lịch sử Trong một cuộc phỏng vấn năm 2008, Satoshi nói rằng anh là người hâm mộ của TM Network và thành viên Komuro Tetsuya của nhóm khi còn học tiểu học và trung học cơ sở. Anh bắt đầu sản xuất âm nhạc của mình ở tuổi 14. Lúc khởi đầu, ban nhạc phát hành các bài hát của mình trên Muzie, cộng đồng nhạc indie và nghiệp dư Nhật Bản. Album của fripSide luôn có doanh số cao tại cửa hàng CD trực tuyến của Muzie. Tính đến tháng 7 năm 2006, hơn 6.000 bản của ba album gốc đã được bán ra. Thành viên Thành viên chính Yaginuma Satoshi (biệt danh "Sat") (nhà soạn nhạc, biên khúc, hát, lời, synthesizer, guitar, lập trình) Uesugi Mao (hát, lời) - Được công bố là một trong hai ca sĩ chính của fripSide vào 24 tháng 4, 2022. Hsayo Abe (hát, lời) - được công bố là một trong hai ca sĩ chính của fripSide vào 24 tháng 4, 2022. Cựu thành viên Nao (hát, lời) – tốt nghiệp ngày 15 tháng 3, 2009. Nanjō Yoshino (biệt danh "Nanjolno") (hát, lời) – được công bố là ca sĩ chính mới của fripSide vào ngày 28 tháng 7 năm 2009. Tốt nghiệp vào ngày 24 tháng 4, 2022. Nhân viên âm thanh Kenji (đạo diễn âm thanh) Takumi Okamoto (đạo diễn âm thanh) masa (điệp khúc, synthesizer) Mayu (guitar) Toguchida Takahiro (guitar) a2c (guitar) Yamashita Shinichiro (lời bài hát) Graphics3810 (thiết kế) Kula (quản lý) riko (điệp khúc) Kawasaki Kai (biệt danh: "DJ Manga") (biên khúc, DJ, synthesizer) kurokawa shin (lời, soạn nhạc) Saito Shinya (biên khúc) Takeshi Hoshino (guitar) Kazumi Yagi ​​​​(trống) Yuta Kitamura (guitar bass) Danh sách đĩa nhạc fripSide (Nao) và fripSide NAO project! Đĩa đơn "Flower Of Bravery" (2008) "Yappari sekaiha atashi☆legend!!" (2008) fripSide (Yoshino) Đĩa đơn "only my railgun" (2009) "Level 5: Judgelight" (2010) "Future Gazer" (2010) "Heaven is a Place on Earth" (2011) "Way to Answer" (2011) "Sister's Noise" (2013) "eternal reality" (2013) "black bullet" (2014) "Luminize" (2015) "Two Souls – Toward The Truth" (2015) "White Forces" (2016) "clockwork planet" (2017) "killing bites" (2018) "divine criminal" (2018) "Love with You" (2018) "final phase" (2020) "dual existence" (2020) "legendary future" (2020) "Leap of faith" (2022) fripSide (Mao & Hisayo) Đĩa đơn "dawn of infinity" (2022) "Red Liberation" (2023) Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Trang web chính thức của Yaginuma Satoshi fripSide Hello!Music!! Web Radio (Lưu trữ) muzie:fripSide Nhóm nhạc pop Nhật Bản Ban nhạc thành lập năm 2002 Khởi đầu năm 2002 ở Nhật Bản
19856990
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20%C4%91ua%20xe%20%C4%91%E1%BA%A1p%20tranh%20C%C3%BAp%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh%202011
Cuộc đua xe đạp tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2011
Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2011 là cuộc đua lần thứ 23 của Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh do Ban Thể dục - Thể thao, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Tổng cục Thể dục - Thể thao Việt Nam phối hợp tổ chức, diễn ra từ ngày 21 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 2011. Cuộc đua gồm 9 chặng, tổng lộ trình 1075 km, xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Nha Trang (Khánh Hòa) và ngược lại. Tổng cộng có 14 đội đua trên cả nước tham gia cuộc đua lần này. Công bố Thông tin về Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2011 được công bố vào đầu tháng 4 năm 2011 trong một cuộc họp báo trước khi khởi tranh giải. Ban tổ chức đã công bố lộ trình cuộc đua với tổng lộ trình dài 1075 km. Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cho biết việc tổ chức này nhằm hướng tới kỷ niệm 36 năm ngày Giải phóng miền Nam - Thống nhất đất nước, 125 năm ngày Quốc tế Lao động, 121 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Danh sách tham dự Cuộc đua lần thứ 23 quy tụ các đội đua: ADC Truyền hình Vĩnh Long (AVL) Domesco Đồng Tháp 1 (DD1) Domesco Đồng Tháp 2 (DD2) Bảo vệ Thực vật Sài Gòn 1 (BS1) Bảo vệ Thực vật Sài Gòn 2 (BS2) Vinamit (VNM) Quân khu 7 (QK7) Quân Đội (QDO) Đống Đa Hà Nội (DHN) Bảo vệ Thực vật An Giang (BAG) Đồng Nai (DNA) Cần Thơ (CTH) Lộ trình và kết quả từng chặng Xếp hạng chung cuộc Truyền hình Các chặng đua được truyền hình trực tiếp trên các kênh HTV9 và HTV2. Tham khảo Thể thao Việt Nam năm 2011 Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
19857001
https://vi.wikipedia.org/wiki/HESA%20Yasin
HESA Yasin
HESA Yasin () là một loại máy bay huấn luyện phản lực được thiết kế và chế tạo bởi các chuyên gia của Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Hồi giáo Iran. Lịch sử Yasin được ra mắt trong một buổi lễ tại Căn cứ Không quân Hamadan vào ngày 17 tháng 10 năm 2019, với sự tham dự của các quan chức cấp cao Iran bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng, Chuẩn tướng Amir Hatami, Chuẩn tướng Không quân Iran Aziz Nasirzadeh và phó chủ tịch phụ trách khoa học công nghệ Sorena Sattari. Việc sản xuất hàng loạt bắt đầu vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, chuyến bay đầu tiên thực hiện ngày 13 tháng 12 năm 2023. Thiết kế Trọng lượng của Yasin là 5,5 tấn và có thể bay xa tới 1200 km. Thiết kế của cánh cho phép nó hạ cánh và cất cánh với tốc độ ít nhất 200 km/h. Ngoài nhiệm vụ huấn luyện phi công lái máy bay chiến đấu, Iran cũng đang xem xét sử dụng Yasin cho nhiệm vụ hỗ trợ không lực tầm gần. Thông số kỹ thuật Dữ liệu lấy từ Đặc điểm tổng quát Phi hành đoàn: 2 người Chiều dài: 12,25 m (40 ft 2 in) Sải cánh: 10,4 m (34 ft 1 in) Chiều cao: 4 m (13 ft 1 in) Diện tích cánh: 24 m2 (260 ft2) Trọng lượng không tải: 3.900 kg (8.598 lb) Trọng lượng có tải: 5.500 kg (12.125 lb) Trọng lượng cất cánh tối đa: 6.600 kg (14.551 lb) Động cơ: 2 × Động cơ tuốc bin phản lực luồng Owj (không có phiên bản đốt sau), mỗi động cơ cung cấp lực đẩy 16 kN (3.600 lbf) Hiệu suất bay Tốc độ tối đa: 1000 km/h (620 dặm/giờ; 540 hải lý/giờ) Tầm bay: 900 km (560 dặm; 490 hải lý) Trần bay: 11.000 m (36.000 ft) Thời gian bay liên tục: 90 phút khi không mang thùng nhiên liệu phụ; hoặc 120 phút khi có mang thùng nhiên liệu phụ bên ngoài Xem thêm Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương CASA C-101 Aviojet Tham khảo Máy bay hai động cơ phản lực Mô tả ngắn khác với Wikidata Bài có mô tả ngắn Máy bay HESA Máy bay cánh thấp
19857012
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%A1
Sani (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ს, mtavruli Ს) là chữ cái thứ 20 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ს có giá trị 200. ს thường đại diện cho âm xát chân răng vô thanh , giống như cách phát âm của trong "see". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Latinh S Tham khảo Chữ cái Gruzia
19857017
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%A2
T'ari (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ტ, mtavruli Ტ) là chữ cái thứ 21 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ტ có giá trị 300. Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Gruzia Tani Chữ cái Kirin Te Tham khảo Chữ cái Gruzia
19857021
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%B3
Vie (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ჳ, mtavruli Ჳ) là chữ cái thứ 22 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ჳ có giá trị 400. Hiện tại ჳ không còn được sử dụng trong tiếng Gruzia Chữ cái Mã hóa máy tính Xem thêm Chữ cái Gruzia Vini Tham khảo Chữ cái Gruzia
19857025
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%B1
He hay Ei (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ჱ, mtavruli Ჱ) là chữ cái thứ 8 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ჱ có giá trị là 8. Hiện tại ჱ không còn được sử dụng trong tiếng Gruzia. Chữ cái Mã hóa máy tính Xem thêm He (chữ cái) Tham khảo Chữ cái Gruzia
19857029
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Triton%20%28SS-201%29
USS Triton (SS-201)
USS Triton (SS-201) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba, và là chiếc tàu ngầm đầu tiên, của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Triton, vị thần sứ giả của biển trong thần thoại Hy Lạp. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được sáu chuyến tuần tra và đánh chìm 11 tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu ngầm, với tổng tải trọng 31.788 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, nó mất tích tại khu vực quần đảo Admiralty, có thể bị tàu khu trục Nhật Bản đánh chìm vào ngày 15 tháng 3, 1943. Triton được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào cuối năm 1942 Triton được nâng cấp lên cỡ pháo 4-inch. Triton được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 5 tháng 7, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 3, 1940, được đỡ đầu bởi bà Martha E. King, phu nhân Chuẩn đô đốc Ernest J. King, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 8, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Willis Ashford Lent. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Triton được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 31.788. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-201 Listing of crew members on USS Triton lost with her sinking. Discussion of several possibilities for the sinking of Triton Updated discussion of possibilities for the sinking of Triton. Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu bị tàu chiến Nhật Bản đánh chìm Xác tàu đắm tại Thái Bình Dương trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1943 Tàu thủy năm 1940
19857031
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Triton
USS Triton
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Triton theo tên Triton, vị thần sứ giả của biển trong thần thoại Hy Lạp: là một tàu kéo trong biến chế từ năm 1889 đến năm 1930 là một tàu kéo đã phục vụ một giai đoạn ngắn vào nâm 1918 là một nhập biên chế năm 1940 và bị đánh chìm năm 1943 là một tàu ngầm hạt nhân trong biến chế từ năm 1959 đến năm 1969 Xem thêm Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857033
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Trout%20%28SS-202%29
USS Trout (SS-202)
USS Trout (SS-202) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá hồi chấm. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười một chuyến tuần tra và đánh chìm 12 tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu ngầm, với tổng tải trọng 37.144 tấn. Con tàu mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng, có thể bị tàu khu trục Nhật Bản đánh chìm về phía Tây Bắc Philippines vào ngày 29 tháng 2, 1944. Trout được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc. Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào cuối năm 1943, Trout được nâng cấp lên cỡ pháo 4-inch. Trout được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 28 tháng 8, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 5, 1940, được đỡ đầu bởi bà Walter B. Woodson, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 11, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Frank Wesley Fenno Jr. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Trout được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm 12 tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu ngầm, với tổng tải trọng 37.144 tấn. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-202 On Eternal patrol: USS Trout Lớp tàu ngầm Tambor Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu bị tàu chiến Nhật Bản đánh chìm Xác tàu đắm trong biển Philippine trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1944 Tàu thủy năm 1940
19857035
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Trout
USS Trout
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Trout, theo tên loài cá hồi chấm: là một nhập biên chế năm 1940 và bị đánh chìm năm 1944 là một trong biến chế từ năm 1952 đến năm 1977 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19857037
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paul%20Badura-Skoda
Paul Badura-Skoda
Paul Badura-Skoda (6 tháng 10 năm 1927 - 25 tháng 9 năm 2019) là một nghệ sĩ dương cầm người Áo. Danh sách đĩa nhạc Paul Badura-Skoda. Mozart. Pianoforte Sonatas. Played on a 1790 Johann Schantz fortepiano. Label: Astree Naive. Paul Badura-Skoda. Wolfgang Amadeus Mozart. Works for piano. Played on an Anton Walter 1790 fortepiano. Label: Gramola. Paul Badura-Skoda with Musica Florea. Wolfgang Amadeus Mozart. Piano concertos K.271, K.414.  Played on a Walter 1792 fortepiano replica by Paul McNulty. Label: Arcana. Paul Badura-Skoda. Franz Schubert. Fantaisie Pour le Piano-forte. Played on a Conrad Graf 1824 fortepiano. Label: Astree. Paul Badura-Skoda. Plays Claude Debussy. Recorded at Vienna (Austria), May 14 & 16, 1984, on a Bösendorfer 290 Imperial made in 1923. Charles Mackerras (conductor), Paul Badura-Skoda, Polish Radio Symphony Orchestra. Shostakovich. Symphony No.9; Scriabin, Piano Concerto; Dvořák, Symphonic Variations. Label: Pristine Audio. Paul Badura-Skoda, Vienna Symphony Orchestra, Henry Swoboda (conductor). Rimsky-Korsakov. Piano Concerto. Label: Pristine Audio. Tham khảo Liên kết ngoài CDs of Badura-Skoda released by label GENUIN Interview with Paul Badura-Skoda by Bruce Duffie, March 7, 1989 Essence (2018) - a short film based on Paul Badura-Skoda's 1967 essay "Look to the Guiding Stars!" , WNCN-FM New York City, 26 March 1982 Nghệ sĩ dương cầm Nhạc cổ điển Sinh năm 1927 Mất năm 2019